b. Về tên gọi hồ lô
Về tên gọi tiếng Trung, phổ biến nhất là hồ lô /húlu/ với nhiều cách viết: 葫芦, 壶卢, 胡卢, ngoài ra còn được biết đến với tên gọi phố lô (蒲芦/púlu/) v.v.. Tên gọi hồ lô thể hiện ý nghĩa may mắn. Theo lối hài âm, hồ đọc là /hú/ gần với phúc /fú/, lô đọc là /lu/ gần âm với lộc /lù/. Trong văn hoá dân gian, người dân mượn hình ảnh quả hồ lô căng tròn để gửi gắm ước vọng phúc lộc song tiến. Ngoài ra, khèn hồ lô gọi là sênh (笙/sheng/), trùng âm với từ sinh (sôi) (生/sheng/) trong sinh cơ (生机/shengji/) hay thăng tiến (升/sheng/) [Triệu Thân 2001: 80]. Trong tiếng Anh, hồ lô là calabash, tiếng Tây Ban Nha là shekere, tiếng Sanscrit là tumba, trong tiếng Việt là bầu (bí)v.v…
c. Phân loại
- Về phân loại, theo Bản Thảo Cương Mục của Lý Thời Trân (1518-1593) dựa vào hình dáng, kích cỡ quả hồ lô, có thể phân hồ lô ra năm loại tiêu biểu sau: (1) Hồ (瓠): hình trụ tròn, dài, đáy lõm vào giữa; (2) Huyền hồ (悬瓠): hồ lô đầu nhỏ, phần dưới phình to, đáy lõm vào giữa; (3) Hồ (壶): hồ lô hình quả tim ngược; (4) Bào (匏): hồ lô hình quả bưởi; (5) Phố lô (蒲芦): hình hồ lô có hai phần trên, dưới phình to, eo nhỏ [hình 5].
- Còn nếu phân loại theo đặc điểm vị ngọt – đắng thì có thể phân ra hai loại: hồ (瓠) - hồ lô ngọt; và bào (匏) – hồ lô đắng.
d. Lịch sử xuất hiện quả hồ lô ở Trung Quốc:
Không ai biết hồ lô được thuần dưỡng tự bao giờ. Qua nghiên cứu khảo cổ ở di chỉ Hà Mẫu Độ (河姆渡,lưu vực sông Dương Tử) cho thấy hồ lô đã được trồng ở Đông Nam Á cổ từ hơn 7000 năm trước. Chủ nhân của chúng là các tiền dân Bách Việt, Miêu Man, Bách Bộc. Giáp Cốt Văn thể hiện chữ hồ 壶 (tức hồ lô) bằng hình ảnh một chiếc bình có nắp đậy và có quai cầm [hình 2]. Có lẽ phần nút đậy bằng cành trúc đồng thời cũng là tay xách khi mang đi. Phần quai cầm được gắn thêm vào để tiện rót nước, rượu hay các vật đựng bên trong. Thời Tây Chu, hồ lô bắt đầu đi vào văn học nghệ thuật, được Khổng Tử thể hiện trong bộ Kinh Thi “Tháng bảy hái ăn, tháng tám lấy quả, tháng chín dựng lại giàn” (“七月食瓜,八月断壶,九月筑场圃thất nguyệt thực qua, bát nguyệt đoạn hồ, cửu nguyệt trường phố” bài Thất Nguyệt, chương U Phong) [Triệu Thân 2001: 87]. Thời Đông Chu, do kỹ thuật vun trồng được cải tiến, nhiều giống hồ lô mới, quả to được trồng khắp nơi, kể cả ở vùng Hoa Bắc. Từ Hán – Đường về sau, người ta đã có thể trồng các loại hồ lô quả cực to. Ngày nay, một số vùng Ngũ Lĩnh, Vân Quý, Hải Nam.. nhiều nhà trồng giàn hồ lô trước sân nhà.
Có thể quả hồ lô đã trở nên quen thuộc với con người từ thưở mông muội, khi mà hoạt động hái lượm hay thu hoạch các loại sản phẩm từ thực vật trở nên phổ biến. So với việc săn bắt động vật thì việc sử dụng sản phẩm thực vật tự nhiên có ưu thế hơn. Các tính năng đặc biệt đã làm cho quả hồ lô dần dà thoát khỏi cái “vỏ tự nhiên”, khiến nó được con người “nhân cách hóa”, “thần bí hóa” và tạo ra muôn vàn thần thoại, truyền thuyết gắn với chúng.
e. Công năng của quả hồ lô
* Phần ruột:
(1) Dùng làm thực phẩm. Phần hoa, đọt non, ruột, vỏ quả hồ lô non có thể được dùng chế biến món rau bổ sung lượng chất xơ và vitamin đáng kể cho cơ thể con người (trừ loại hồ lô đắng). Hồ lô non còn có thể được phơi khô dùng làm “rau khô” trong suốt mùa đông băng giá.
(2) Dùng làm dược phẩm. Loại được dùng làm dược phẩm chủ yếu là loại hồ lô đắng. Hồ lô đắng có dược tính đặc biệt, chủ yếu là tính hàn. Theo ghi nhận, có hơn 30 loại thảo dược có dùng dược liệu từ hồ lô. Cụ thể trong Bản Thảo Cương Mục có ghi nhận thảo dược hồ lô chủ tiêu khát, giải nhiệt, giải tâm nhiệt, lợi tiểu tràng, lợi tiểu, nhuận tâm phổi, trừ phiền muộn [Vương Thế Tương 2001: 4]. Chính nhờ đặc tính này, vỏ hồ lô được các thầy lang dân gian dùng để đựng dược liệu [hình 3]. Một số loại hồ lô đắng qua chế biến có thể dùng thay thế trà [Lâm Hà 2001: 145].
* Phần vỏ
(1) Dụng cụ chứa đựng. Bình hồ lô có thể dùng để đựng nước, rượu, gạo, thức ăn, dược liệu v.v.. [hình 3]. Vỏ hồ lô khô có thể cắt làm bát, đĩa, bôi trong ăn uống. Trong cuốn Hàn Phi Tử có viết “Hồ lô đực thuộc hàng quý, có thể dùng để chứa đựng” (夫瓠所贵者,谓其可以盛也Phu hồ sở quý giả, vị kì khả dĩ thịnh dã)[Từ Kiệt Thuấn 2001: 92]. Trong hôn nhân của người tiền Hán, người ta lấy chiếc hồ lô cán dài xẻ đôi thành hai cái “bao cẩn” (包卺) [hình 4], dùng trong nghi thức uống rượu giao bôi. Từ đó, thành ngữ “hợp cẩn giao bôi” (合卺交杯) được sử dụng phổ biến. Ngoài ra, hồ lô nhỏ còn được chế tác thành dụng cụ hút thuốc tương tự như dụng cụ hút thuốc lào ở Việt Nam.
Xuất phát từ việc sử dụng hồ lô làm vật dụng chứa đựng, dần dà người nguyên thủy đã phát minh, chế tác các loại đồ gốm dùng để chứa dựng có hình dáng mô phỏng hồ lô [hình 5]. Hiện tại, thuyết “đồ gốm phỏng hồ lô” đã được giới nghiên cứu công nhận rộng rãi [Từ Kiệt Thuấn 2001: 92; Sơn Mạn 2001: 107]. Quá trình biến đổi từ sử dụng hồ lô tự nhiên sang chế tác các loại đồ gốm phỏng hình hồ lô hoàn toàn hợp với quá trình diễn hóa văn hóa.
(2) Công cụ giao thông thủy: nhờ đặc điểm rỗng ruột, chỉ cần bịt kín phần miệng, hồ lô sẽ trở thành một loại “phao” đặc biệt. Các sách Kinh Thi, Trang Tử, Quốc Ngữ đều có nhắc đến loại “công cụ” giúp người qua sông, suối này. Dân gian Trung Hoa gọi loại “công cụ” đặc biệt này là “thuyền eo” (腰舟yếu chu) [hình 6]. Ngày nay, vùng nông thôn Hà Nam, Sơn Đông, Tứ Xuyên vẫn còn dùng loại công cụ này khi qua sông, suối nhỏ. Người Khách Gia ở Quảng Đông khi đánh cá dưới sông đeo quanh eo vài chiếc hồ lô cứu sinh. Trẻ em đeo vài chiếc hồ lô nhỏ quanh thân ngụ ý trừ tà, đồng thời sẽ giúp cứu trẻ trong trường hợp bị rơi xuống nước. Ở đảo Hải Nam, người Lê dùng một quả hồ lô to rỗng, bịt kín miệng, thả xuống sông, suối, ôm trầm lấy mà bơi qua. Ở Đài Loan, người Amei, người Cao Sơn cũng làm cách này [Tống Triệu Lân 2001: 19-20, 38-39]. Ở một số vùng khác, người ta làm bè hồ lô qua vượt qua những khúc sông có quá nhiều ghềnh thác. Trong thần thoại, hồ lô rỗng với đặc tính nổi trên mặt nước đã được mượn làm biểu tượng cứu sống nhân loại. Học giả Văn Nhất Đa (1899-1946) tiến hành phân tích 49 thần thoại hồng thủy của các dân tộc thiểu số kết luận rằng hồ lô là dụng cụ cứu sinh phổ biến nhất (chiếm 57,2% trong số các dụng cụ hồ lô, thùng gỗ, giường, trống, thuyền v.v..; xem phần sau) [Tống Triệu Lân 2001: 35].
(3) Nông ngư cụ. Trong nông nghiệp, không ít nông dân dùng bình hồ lô đầu nhọn, khoét miệng vừa đủ để rót hạt giống. Trong ngư nghiệp, vỏ hồ lô khô còn được dùng làm phao nổi mắc vào lưới, giúp ngư dân định vị được vị trí mảnh lưới của mình trên mặt nước.
(4) Chế tác vũ khí. Lịch sử chiến tranh ở đất Trung Hoa xưa đã từng tồn tại loại vũ khí đả thương có tên gọi là “hồ lô hỏa dược”. Có thể phân ra các loại: Hồ lô hỏa hoành trận (衡阵火葫芦); Hồ lô đối mã thiêu nhân (对马烧人葫芦); Pháo lôi qua (雷瓜炮); Lạn cốt qua dầu thần (烂骨瓜油神); Hỏa dược phi lôi (火药飞雷) v.v.. dùng trong chiến tranh, khai phá đất đai và săn bắt thú rừng [Tống Triệu Lâm 2001: 20-21].
(5) Chế tác nhạc khí. Hồ lô khô rỗng ruột khi vỗ sẽ phát ra một loại âm thanh khá đặc trưng, được các tộc người ở Trung Hoa chọn làm một trong “bát âm” phổ biến, gồm kim loại, đá, tơ, trúc, bào, đất, da thuộc và cây. Trong đó, bào (匏) chính là cái khèn (笙竿sênh can / 竽vu) [hình 7]. Từ thời Chiến Quốc đến Tây Hán, vùng cao nguyên Vân Quý đã mô phỏng khèn hô lô tự nhiên để chế tác loại kèn hồ lô đồng (khai quật được ở vùng Giang Xuyên, Ninh Phổ - Vân Nam). Điều này cho thấy hồ lô tự nhiên đã được chế tác thành nhạc khí từ rất lâu trước đó. Trong các sách Man Thư, Tân Đường Thư, Lĩnh Ngoại Đại Đáp.. đều có phần ghi chép về loại nhạc cụ này [Tống Triệu Lân 2001: 20-21]. Trong nghi lễ rước linh hồn người chết vào hồ lô tổ linh của dân tộc Di (Vân Nam), các vu sư phải thổi khèn hồ lô để múa cúng tế. Tộc người La Hô (拉祜) có 136 bộ múa khèn, và hơn 400 bài múa có sử dụng khèn hòa tấu [www.cwineasy.com].
(6) Dùng làm tang cụ. Một số dân tộc như người Di, Thủy, La Hô dùng bình hồ lô chứa xương tro của người chết với hy vọng linh hồn người chết sẽ được “quay về” nguồn cội. Loại hồ lô này được gọi là “hồ lô tổ linh” (祖灵葫芦).
(7) Đồ thưởng ngoạn. Chủ yếu là các loại hồ lô nhỏ, qua bàn tay chế tác, họa vẽ của nghệ nhân có thể trở thành một loại hàng mỹ nghệ để trưng bày, trang trí hay chứa đựng những thứ quý giá trong nhà.
(8) Các dụng cụ khác: Vỏ hồ lô còn dùng làm bát nến, đồ đo lường (rượu, giấm, dầu), nuôi dế.
2. Chủ thể văn hóa hồ lô
Hiện có ít nhất 26 dân tộc ở Trung Quốc có tục sùng bái hồ lô hay có thần thoại hồ lô, gồm Hán, Thái, Di, Lật Túc, Miêu, Dao, Xá, Tạng, Bạch, Hồi, Hà Nhì, Choang, Cơ Nặc, Đức Ngang, Bố Y, Ngõa, Lê, Thủy, Cách Lao, Nộ, Đồng, Cao Sơn, A Xương, Nạp Tây, Cảnh Pha, La Hô [www.nikerchina.com]. Về không gian, ngoài tộc người Hán, các tộc người nói trên đa số phân bố ở các khu vực cao nguyên Vân Quý, lòng chảo Tứ Xuyên, cao nguyên Thanh Tạng, Lĩnh Nam. Một số tộc người sống rải rác ở vùng Hoa Đông, Tây Bắc và đảo Đài Loan.
Theo lịch sử, vùng đất phía Nam Dương Tử vốn là khu vực cư trú của ba tập đoàn lớn: Bách Bộc ở vùng Tây Nam; Bách Việt ở vùng Đông Nam; Miêu Man ở phía đông cao nguyên Vân Quý và vùng phụ cận. Tác giả Lâm Hà [2001: 152-153] thì cho rằng chủ thể văn hóa hồ lô chính là tập đoàn Bách Bộc. Ông cho rằng Bách Việt là hậu duệ của Bách Bộc – một quan điểm hiếm thấy trong giới nghiên cứu. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi không tập trung vào mối quan hệ giữa Bách Bộc và Bách Việt mà chỉ khẳng định rằng cả hai nhóm này đều là chủ thể của văn hóa hồ lô.
Sách Sở Từ có viết “Bộc tại Sở Tây Nam” (仆在楚西南), “Bộc nhân vi đan sa” (仆人为丹砂), “Bộc nhân vi thần sa” (仆人为神砂) [Lâm Hà 2001: 153]. Có thể thấy, cư dân vùng đất rộng lớn phía tây nam nước Sở gọi chung là Bộc nhân (仆人). Trong lịch sử, khu vực này vốn dĩ phức tạp vì cả ba tập đoàn lớn Bách Bộc, Bách Việt, Miêu Man cùng cộng cư, cùng giao thoa văn hóa. Tù nhân, nô lệ gốc ở ba tập đoàn này đều bị người Trung Nguyên gọi chung là “nô bộc” (奴仆) một cách rất phiếm diện.
Trong Giáp Cốt Văn, từ bộc xuất hiện sớm [hình 11]. Chữ bộc bao gồm năm phần chính: phần thân người, phần “đuôi”, phần đội đầu, phần cầm trên tay, và các hạt li ti. Hiện có hai cách diễn giải ý nghĩa của chữ bộc như sau [hình 12]:
STT |
Bộ phận |
Diễn giải của các tác giả người Hán |
Diễn giải của tác giả Lâm Hà [2001] |
1 |
Thân người |
Người: nô bộc (tôi tớ) |
Người: vu sư |
2 |
“Đuôi” |
Phần kéo dài của trang phục (lụa, lông trĩ..) |
Tàn dư của đuôi chó thần – vật tổ của Bộc nhân |
3 |
Phần đội đầu |
Hình cụ |
Mão có biểu tượng ngọn lửa thiêng của vu sư đội khi cúng tế |
4 |
Phần cầm trên tay |
Cái ki rác |
Quả hồ lô lễ thần – biểu tượng linh thiêng trừ tà ma và phồn thực |
5 |
Các hạt li ti |
Bụi |
Hương thơm của món dâng thần linh trong hồ lô |
Bảng 1: Diễn giải hình tượng chữ bộc trên Giáp Cốt Văn
Có thể thấy hai cách diễn giải rất khác nhau do được nhìn nhận từ hai góc độ rất khác biệt. Theo cách diễn giải của các tác giả người Hán đại diện là Văn Nhất Đa [2001] thì danh từ Bộc nhân mang ý nghĩa nô bộc nên nhìn đâu cũng ra nô bộc (quan điểm vô thần). Còn tác giả Lâm An thì đứng ở góc độ chủ nghĩa duy vật lịch sử để quan sát nên cho kết quả khác. Theo chúng tôi, thứ chữ này do tiền nhân người Hán tạo ra (Giáp Cốt Văn) nên ít nhiều nó mang quan niệm “dĩ Trung Nguyên vi trung” của mình. Song, ở một khía cạnh khác, Giáp Cốt Văn là loại chữ tượng hình, chủ yếu dựa vào hình dáng của vật thể tự nhiên để cách điệu tạo chữ viết nên có thể chữ bộc này thể hiện hình ảnh của một vu sư đang tiến hành nghi lễ. Cơ sở của ý kiến này nằm ở các khía cạnh sau:
1/ Phần đuôi không thể là phần kéo dài của trang phục. Người nô lệ không thể mang theo phần đuôi này khi đang làm việc.
2/ Phần đội đầu cho là hình cụ thì không thể lý giải nổi tại sao “người nô bộc này” vừa cầm ki vừa đội hình cụ?
3/ Nếu phần tay cầm là cái ki rác thì người nô bộc không thể nâng ki rác cao đến như thế, vì như vậy sẽ là vô lễ đối với giới chủ.
4/ Một số tác giả người Hán chưa giải nghĩa hết ý nghĩa của chữ Bộc (仆). Bộc không chỉ có nghĩa là nô bộc, mà còn là hồ lô. Bộc nhân: dân tộc hồ lô (theo quan niệm của Lâm An [2001], Diệp Minh Giám [2001]). Còn từ Bộc trên Giáp Cốt văn được tạo thành từ cách mượn âm diễn ý của người Hán. Gốc ban đầu của từ bộc có âm đọc là Bu, Bô, Bua, Pu, Po…[xem mục hình tượng hồ lô trong ngôn ngữ].
II. Hình tượng hồ lô trong văn hóa Trung Hoa
1. Hình tượng hồ lô trong ngôn ngữ - văn học dân gian
a. Trong ngôn ngữ
Trong tiếng Hán hiện đại có không ít tục ngữ, thành ngữ mượn hình ảnh và ý nghĩa của chiếc hồ lô để diễn đạt. Dưới đây là một vài ví dụ tiêu biểu:
Tục ngữ / thành ngữ |
Chữ Hán |
Ý nghĩa |
Nhất hồ thiên địa |
一壶天地 |
Chiếc hồ lô chứa cả vũ trụ |
Vẽ cái gáo theo hình hồ lô |
照着葫芦画瓢 |
Mô phỏng đơn giản |
Theo hình mà vẽ hồ lô |
依样画葫芦 |
Mô phỏng đơn giản |
Đông nói hồ lô tây nóigáo |
东指葫芦西指瓢 |
Huyên thuyên bất tận |
Đè hồ lô xuống thì gáo nổi lên |
按下葫芦瓢起来 |
Việc này chưa xong việc khác lại đến |
Không biết trong hồ lô bán loại thuốc gì |
不知葫芦里卖的什么药 |
Không biết anh ấy / cô ấy / họ đang nghĩ gì |
Hồ lô trộn cà tím |
葫芦搅茄子 |
Thị phi hỗn độn / Vàng thau lẫn lộn |
Cưỡi trên chiếc hồ lô mà đầu óc hỗn độn |
骑着葫芦头乱转转 |
Chủ ý bất định |
Chỉ chiếc hồ lô ấy mà đầu nảy ra vàng |
指着那个葫芦头开金 |
Dựa dẫm vào ai đó làm việc gì đó |
Bảng 2: Thành ngữ, tục ngữ có mượn hình ảnh hồ lô
Có thể thấy hình ảnh hồ lô trong các thành ngữ, tục ngữ nói trên được sử dụng phổ biến với phạm vi ý nghĩa rộng, song hàm ý đều mang tính tích cực. Chẳng hạn ở câu “hồ lô trộn cà tím” (thị phi hỗn độn) thì hình ảnh hồ lô được hiểu là đối tượng tích cực (thị), còn cà tím – một loại cà tầm thường – mang biểu trưng tiêu cực (phi).
Trong ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số miền Nam và Tây Nam Trung Hoa, hồ lô được gọi là Bộc (bo/bu/pu). Khái niệm Bộc nhân để chỉ dân tộc hồ lô. Tác giả Lâm Hà [2001: 154] dẫn ra rằng các từ bà (婆), ba (爸), phụ (父), bào (胞, đồng bào), bát (钵) (bát đựng cơm của sư sãi) v.v. đều có gốc chung là từ bo/bu/pu mà ra. Ngày nay, các tộc người thiểu số vùng Tây Nam, Đông Nam Trung Quốc tự xưng tộc danh của mình với gốc từ bo (仆bộc), ví dụ:
Tộc danh chuẩn |
Tộc danh tự xưng |
Chữ Hán |
Tộc danh chuẩn |
Tộc danh tự xưng |
Chữ Hán |
Đồng |
Bộc Giám / |
仆鉴/ 仆鉴 |
Miêu |
Bộc Giám |
仆鉴/仆鉴 |
Choang |
Bộc Choang |
仆壮 |
Dao |
Bộc Giám |
仆鉴 |
Bố Y |
Bộc Y |
仆依 |
Thổ Gia |
Ba Bộc |
巴仆 |
Bảng 3: Tộc danh gắn với tên gọi hồ lô ở Trung Hoa
Có thể thấy các từ bô, bua, bu, po, pu.. rất gần âm với từ pò (chỉ thủ lĩnh) của một số dân tộc thuộc các nhóm Việt – Mường, Tày – Thái có ở Đông Nam Á. Chẳng hạn, từ vua Hùng âm Việt cổ là pò khun. Người Thái Tây Bắc cũng gọi thủ lĩnh là pò khun [Trần Ngọc Thêm 2004: 81]. Cũng ở tình huống tương tự, các từ bô, bua, bu, po, pu… chỉ hồ lô cũng đồng/gần âm với từ bô trong tiếng Việt cổ - từ về sau phát triển thành hai từ vua và bố [Trần Ngọc Thêm 2004: 206]. Trong phương ngữ Mân Nam vùng Phúc Kiến thì từ bô biến âm thành bou [po*1], chỉ bố [Nguyễn Đức Hiệp 2007].
b. Hình tượng hồ lô trong văn học dân gian
Là một biểu tượng văn hóa dân gian, hồ lô đã đi vào văn học dân gian từ rất sớm. Tiêu biểu nhất là hai thể loại thần thoại và cổ tích. Trong đó, ở thể loại thần thoại là đặc sắc hơn cả.
Học giả Văn Nhất Đa (1899-1946) trong tác phẩm Phục Hy khảo liệt kê được 49 loại thần thoại có liên quan đến hồ lô. Hiện nay, giới nghiên cứu văn hóa Trung Quốc thống kê được hơn 119 loại [www.nikerchina.com]. Xét ở khía cạnh vai trò tham gia của hình tượng hồ lô thì trên đại thể có thể xếp vào hai nhóm chính sau: 1) một là chất liệu tạo nhân sinh; 2) hai là công cụ tị nạn
Ở nhóm thứ nhất lại chia ra hai tiểu nhóm: hồ lô trực tiếp sinh người; và hồ lô gián tiếp sinh người.
* Hồ lô trực tiếp sinh người:
STT |
Tộc người |
Nguồn gốc xuất phát hồ lô |
Đối tượng sinh ra từ hồ lô |
Phối hôn và sản sinh nhân loại |
1 |
A Xương |
Thiên Công - Địa Mẫu: mang thai 9 năm, sinh một hạt hồ lô |
9 em bé |
Tự phối hôn, sản sinh loài người |
2 |
Cơ Nặc |
x |
Mã Hắc ( 玛黑), Mã Tổ (玛祖) |
Mã Hắc + Mã Tổ sinh ra loài người |
3 |
Hán, Miêu |
Hai gia đình Giang, Chiêu trồng hồ lô |
Nhị Lang Thần |
Nhị Lang Thần lấy con gái Thái Thượng Lão Quân sinh ra loài người. |
4 |
La Hô |
Thần linh gieo trồng, quả bị chuột cắn |
Một nam một nữ |
Hai thủy tổ kết hôn sản sinh nhân loại |
5 |
Lật Túc |
Từ trên trời rơi xuống 2 chiếc |
1 chiếc sinh Tây Tát (西萨, nam); 1 chiếc sinh Nặc Tát (诺萨, nữ). |
Tây Tát, Nặc Tát kết hôn, sinh 9 cặp nam, nữ. 9 cặp phối hôn sinh nhân loại. |
6 |
Nộ |
Âu Tát (欧萨) trồng hồ lô. Hồ lô sinh người. Đại Hồng Thủy dâng, nhân loại chết. |
Hai anh em sống sót nhờ nấp vào quả hồ lô |
Hai anh em phối hôn sinh nhân loại |
7 |
Thái |
Từ chân trời trôi đến |
Tám nam. Tiên nữ biến bốn trong số họ thành phụ nữ |
Bốn cặp phối hôn sinh nhân loại. |
Bảng 4: Thần thoại hồ lô trực tiếp sinh người
* Hồ lô gián tiếp sinh người:
Miêu, Dao, Xá |
Một phụ nữ tộc Cao Tân thị sinh một con trùng to, thân hình chiếc đĩa (bàn 盘), sau hóa thân thành chó thần, gọi là Bàn Hồ. Giặc Nhung Ngô xâm lấn, triều đình ra lệnh ai diệt được giặc thì trọng thưởng, gả con gái. Bàn Hồ xin đi và chiến thắng trở về. Quần thần cho rằng Bàn Hồ là thú nên không giữ lời hứa. Tuy nhiên, công chúa nhất mực theo Bàn Hồ. Cả hai lên núi, sống trong thạch thất, sau ba năm sinh ra sáu nam sáu nữ. Sau khi Bàn Hồ qua đời, sáu nam sáu nữ phối hôn, sinh ra các dân tộc Hán, Ba, Thục, Di, Miêu Man v.v… |
Bảng 5: Thần thoại hồ lô gián tiếp sinh người
Trên thế giới không chỉ có Trung Quốc mới có thần thoại hồ lô (trực tiếp, gián tiếp) sinh ra nhân loại mà các vùng Đông Nam Á, Nam Á, châu Mỹ… cũng có những ý niệm, thần thoại tương tự. Chẳng hạn:
Trong văn hóa Ấn Độ, tiêu biểu là Sử thi Ramayana: Thiên thứ nhất, chương 37 có dẫn hình ảnh chiếc hồ lô như sau:
“Sumatis tu naravyaghra garbhatumba vyajayata sastih putrasahasrani tumbabhedad vinihsrtah” (“Hỡi thần Sumatis … Người sinh một chiếc hồ lô dài. Bổ chiếc hồ lô ra. Sáu mươi ngàn người con xuất hiện” [Kỳ Mộ Hiền 2001: 136]
Trong tiến Phạn cổ, hồ lô được gọi là tumba. Trong đoạn sử thi trên, danh từ garbhatumba mang ý nghĩa là bào thai hồ lô. Bào thai hồ lô này rất thần bí, cùng lúc sinh ra sáu mươi ngàn đứa con trai.
Còn trong thần thoại Kelah ở Nam Mỹ cũng có chi tiết tương đồng:
Nhật thần mang một chiếc hồ lô đi tắm. Một cô gái từ trong hồ lô bước ra. Nhật thần và nguyệt thần tranh giành cô gái. Nhật thần tặng cô gái cho nguyệt thần, tự mình tìm thêm một cô gái khác từ trong hồ lô. Về sau, các gia đình nhật thần, nguyệt thần sinh ra nhân loại [Lâm Hà 2001: 139].
Ở nhóm thứ hai, mô típ đại hồng thủy – hồ lô cứu sinh – anh em phối hôn tái tạo nhân sinh hầu như thống nhất trong các thần thoại tiêu biểu sau:
STT |
Tộc người |
Nhân vật thủy tổ |
Thủy tai và hồ lô cứu sinh |
Phối hôn, sản sinh nhân loại |
1 |
Đồng, Cách Lao, Thổ Gia |
Tổ mẫu ấp trứng, sinh Tùng Tang (松桑nam) và Tùng Tư (松斯nữ). Hai thần kết hôn, sinh lôi, rồng, hổ, rắn, nhân thần.. 12 loại thần, trong đó Na Huynh Na Muội (傩兄傩妹) nhỏ nhất. |
Các thần tranh chấp, lôi lên trời, rồng xuống biển, hổ lên rừng, rắn vào động. Lôi dâng lũ trả thù, tiêu diệt con cháu nhân thần. Na Huynh Na Muội được thần mách, trốn trong hồ lô, thoát nạn |
Na Huynh Na Muội kết hôn, 3 năm sinh ra túi thịt, chặt thành mảnh, mỗi mảnh biến thành một tộc người: thịt à người Đồng (da trắng); ruột à Miêu (thẳng tính); xương à Dao (rắn rỏi, lao khổ); tim à Hán (khôn lanh)… |
2 |
Thủy |
Á Oa (亚娲) sáng tạo ra lôi, rồng, hổ và người. |
Nhân thần tranh giành. Lôi thần dâng nước báo thù. Chỉ hai anh em trú trong hồ lô do Á Oa tạo ra, thoát nạn. |
Hai anh em kết hôn sinh túi thịt, chặt thành mảnh. Gan biến thành người Thủy; phổi à Bố Y; ruột à Miêu; xương à Hán... |
3 |
Miêu |
Cây phong sinh Hồ Điệp Ma Ma (mẹ bướm), kết hôn với bọt biển (泡沫) sinh 12 trứng, nở ra Khương (姜, anh), Ương (央, em gái), lôi, hổ, rồng… |
Nhân thần tranh chấp, lôi dâng lũ tiêu diệt loài người. Khương, Ương nấp trong hồ lô thoát nạn |
Khương, Ương kết hôn sinh ra túi thịt. Chặt mảnh, mỗi mảnh hóa thân thành một tộc người. |
4 |
Bạch |
Thiên thần A Tỷ (阿仳) báo cho loài người biết về trận hồng thủy sắp tới nhưng mọi người không tin. |
Duy chỉ có hai anh em A Công (阿公), A Bà (阿婆) nghe theo, nấp trong quả hồ lô nên thoát mạng. |
Hai anh em kết hôn, tái sinh nhân loại. |
5 |
Hán |
Một người đàn ông có hai con trai, gái. Người anh em của ông này vì hận thù đã cho dâng nước để trả thù |
Hai anh em vì được tiên mách bảo (hoặc bằng dự đoán) nấp vào trong hồ lô mà thoát nạn |
Hai anh em kết hôn, tái tạo nhân sinh |
Bảng 6: Thần thoại hồ lô cứu sinh.
Ở nhóm thứ hai này, hồ lô tái tạo nhân sinh (hay thủy tổ loài người - hai anh em) có thể chia thành hai loại: 1/ hồ lô chứa người hoặc hồ lô thành người, cụ thể phân ra 6 mô típ điển hình sau: hai anh em sinh ra từ hồ lô; hai anh em ngồi trong nụ hoa, khi hoa kết trái, hai anh em sống trong quả hồ lô; tái tạo nhân chủng, đặt ở bên trong hồ lô; ruột hồ lô biến thành đàn ông, vỏ hồ lô biến thành phụ nữ; chặt hồ lô thành nhiều mảnh, mỗi mảnh biến thành một người; gieo hạt hồ lô, hạt biến thành người. 2/ hai anh em sinh ra quái thai, cụ thể là sinh ra quả hồ lô (hay quả bầu), quả trứng gà, mảnh đá mài, quái thai (túi cầu thịt, miếng thịt, thân hình không tay, chân, mắt, mũi) và túi máu. Việc chặt quái thai ra từng mảnh rồi phân tán nhiều nơi là dạng mô phỏng của cách thức gieo hạt hồ lô.
Trong tất cả các thần thoại, tái tạo nhân sinh là hạt nhân của câu chuyện, mà trong đó hình ảnh hồ lô tạo ra con người là đỉnh điểm.
Thần thoại tái sinh có chi tiết chiếc hồ lô cứu sinh được thay thế bằng các vật thể khác cũng có thể tìm thấy ở các tộc người khác ở Trung Quốc, như người Lê trứng rắn; người Dạ Lang (thời cổ đại) - ống tre; Cao Sơn – quả trứng… Các dân tộc / quốc gia khác trên thế giới cũng có các câu chuyện tương tự:
STT |
Tộc người/quốc gia |
Nhân vật thủy tổ |
Phối hôn, sản sinh nhân loại |
1 |
偻 (Wa, Nhật) |
Nam thần Izanagi + Nữ thần Izanami |
Kết hôn sinh ra các đảo, dân tộc Nhật Bản và Nữ thần Amaterasu |
2 |
Kodiak – Mỹ |
Bọt biển đưa một cặp nam nữ vào bờ. Hai người từ bọt biển chui ra |
Kết hôn và sản sinh nhân loại |
3 |
Philippines |
Điểu thần làm đại dương nổi giận, dâng nước. Trúc Nam và Trúc Nữ trốn vào ống trúc thoát nạn |
Điểu thần mổ vỡ ống trúc. Trúc Nam Trúc Nữ kết hôn, sản sinh nhân loại |
4 |
Kitu (châu Mỹ) |
Chiếc thuyền vuông cứu được nhiều người giữa biển khơi |
Họ vào bờ, kết hôn và sản sinh ra nhân loại hôm nay. |
Bảng 7: Thần thoại các vật dụng thay thế hồ lô cứu sinh trên thế giới.
(2) Ngoài kho tàng thần thoại hồ lô cứu sinh bên trên còn có không ít các câu chuyện cổ tích có vay mượn hình ảnh quả hồ lô cùng các ý nghĩa văn hóa của nó làm nền tảng cho nội dung. Điển hình có thể kể cố sự mang tên Hồ lô đỏ trong kho tàng văn học dân gian vùng Sơn Đông (Trung Quốc) như sau:
“Ngày xưa, hai anh em sống gần nhau. Người anh giàu có nhưng keo kiệt, bủn xỉn. Người em trai nghèo khó nhưng bộc trực, tốt bụng. Mùa xuân đến, chim yến làm tổ trên mái nhà tranh của người em. Chim đẻ trứng, trứng nở ra chim non. Một ngày nọ, chim non chẳng may rơi khỏi tổ và rớt thủng mái nhà dột nát rơi xuống đất, gãy chân. Vợ chồng người em chăm sóc cho chim non. Chim khỏe, bay đi. Ít lâu sau, chim quay về tặng một hạt hồ lô. Người em gieo hạt, đến mùa thu thì kết trái. Người em cưa quả, định bụng làm gáo múc nước, không ngờ bên trong toàn là vàng ròng. Thoáng chốc người em giàu có hẳn.
Người anh tham lam, lười biếng chẳng mấy chốc đã phung phí hết tài sản của mình. Nghe nói em trai bỗng dưng giàu có liền đến hỏi han. Biết chuyện, người anh trai quyết tâm làm giàu theo cách của em mình: chăm sóc chim non, nhặt hạt, gieo trồng, hái quả. Nào ngờ, khi bổ ra, bên trong quả hồ lô không có vàng mà chỉ có một ông lão râu trắng bạc bước ra, không nói năng gì. Người anh tức giận, lấy roi đánh ông lão. Ông lão bay lên không trung. Hóa ra, ông là tiên. Vợ chồng người anh trai đành phải gánh hết tội lỗi của mình” [Sơn Mạn 2001: 107-108]”.
Có thể thấy, mô típ cố sự trên đây phảng phất hình ảnh hai anh em trong câu chuyện Ăn khế trả vàng của người Việt Nam, song mấu chốt ở đây là hạt hồ lô – giàn hồ lô – quả hồ lô. Quả hồ lô chứa vàng – biểu tượng của giàu có, thịnh vượng. Dù vậy, đối với người tham lam (anh trai), hồ lô lại hóa ra công lý trừng trị kẻ ác, thực hiện đạo lý “có vay – có trả”, “nghiệp báo – luân hồi”. Trong câu chuyện còn có cả dấu tích xa gần của Đạo giáo và Phật giáo. Quả thật, hồ lô còn hơn cả một biểu tượng may mắn.
2. Hình tượng hồ lô trong tín ngưỡng, tôn giáo
a. Trong tín ngưỡng:
Có thể nhận định chung rằng hình tượng đặc trưng của hồ lô cùng với các tính năng của nó đã giúp “thần thánh hóa” chính nó, trở thành đối tượng thờ cúng trong các hình thức tín ngưỡng có từ thời viễn cổ.
Đầu tiên, hồ lô là vật tổ của không ít các dân tộc thiểu số tại Trung Hoa (bảng 3). Cả cộng đồng sùng bái hồ lô, coi đó là biểu tượng của sự sống, sự phồn thực và linh vật tạo ra dòng giống.
Thứ hai, hồ lô là một loại biểu tượng nữ tính gắn với sinh sôi được sùng bái trong tín ngưỡng phồn thực. Chương Đại Nhã trong quyển Kinh Thi có viết “dưa sai chi chít, dưa sinh loài người” (绵绵瓜瓞,民之初生 miên miên qua điệt, dân chi sơ sinh) ghi nhận niềm tin hồ lô sinh ra nhân loại trong thần thoại viễn cổ. Hơn nữa, người tiền Hán gọi mẹ là “tôn đường” (尊堂). Theo Liêu Trai Chí Dị và Nho Lâm Ngoại Sử, “tôn” là tên khác của hồ lô葫芦 [Từ Kiệt Thuấn 2001: 95]. Có thể thấy người tiền Hán và các dân tộc lân cận vốn có tín ngưỡng thờ hồ lô mẫu. Trong suy nghĩ của họ, mẫu cũng chính là hồ lô. Mẫu sinh ra con, hồ lô sinh nhân loại. Thờ hồ lô chính là thờ mẫu, thờ sự sinh sôi.
Thứ ba, hồ lô là biểu trưng của nguồn cội, là nơi trú ngụ của tổ tiên, và cũng là nơi mà mọi “tiểu ngã” phải quay về sau cái chết. Chính vì thế, hồ lô gắn với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Một số dân tộc, chẳng hạn người Di, đặt hồ lô lên bàn thờ tổ tiên tượng trưng cho nơi linh hồn tổ tiên trú ngụ, hoặc giả làm nghi lễ rước linh hồn người chết vào trú ngụ trong hồ lô.
Thứ tư, không gian bên trong hồ lô được thần bí hóa thành không gian siêu phàm, nơi thần linh trú ngụ, đặc biệt là trong tín ngưỡng thờ thần. Mỗi khi gặp phải hoạn nạn, người ta làm nghi lễ tế hồ lô với mong ước thần linh sẽ vượt qua không gian vũ trụ linh thiêng ấy để giúp họ toại nguyện [hình 15].
b. Trong tôn giáo
Cũng giống như trong tín ngưỡng, hình tượng hồ lô trong tôn giáo được thể hiện mang đầy đủ các đặc trưng của nó. Trong các tôn giáo Nho, Phật, Đạo.. tại Trung Hoa, có lẽ Đạo giáo tiếp nhận hình tượng hồ lô sâu sắc nhất.
Đạo giáo rất coi trọng hình ảnh cùng ý nghĩa biểu trưng của chiếc hồ lô. Đạo gia và Đạo giáo khởi nguồn từ Lão Tử. Sư bối của Lão Tử là Hồ Tử, người nước Trịnh thời Xuân Thu, lấy biệt danh là Hồ Lô [Từ Kiệt Thuấn 2001: 98]. Lão Tử thì gọi hồ lô là huyền tẫn (玄牝) và thiên địa căn (天地根), tức gốc của đất trời [Trình Tường 2001: 120]. Trang Tử cũng hết lời ca tụng công năng của chiếc hồ lô.
Trong Đạo gia, Thiết Quải Lý, một trong “bát tiên quá hải”, sở hữu một chiếc hồ lô “pháp lực vô biên”, thường dùng hồ lô tiên (bảo hồ lô) để loại trừ cường bạo, diệt ác trừ gian [www.nikerchina.com], “cải tử hoàn sinh”. Dường như hồ lô đã gắn chặt với ý niệm bất tử, hồi sinh của Đạo giáo thần tiên trong dân gian..
Thiết Quải Lý [hình 16] vốn tên là Lý Huyền (李玄), cùng luyện đan trên núi với đệ tử Dương Tử. Một ngày nọ, Lý Huyền thần du, dặn dò đệ tử nếu đến bảy ngày sau mà ông không về thì hãy thiêu xác ông. Chưa đến bảy ngày, đệ tử Dương Tử hay hung tin mẹ mất, bấn loạn đã vội thiêu xác Lý Huyền. Đến ngày thứ bảy Lý Huyền quay về thì thân xác không còn, vội vàng tìm kiếm một thân xác khác để trú ngụ. May thay trong vùng có một người đàn ông què chân (có thể là người ăn mày). Từ đó trở đi, Lý Huyền được dân gian gọi là Thiết Quải Lý. Thiết Quải Lý tìm đến nhà Dương Tử hỏi cho ra chuyện, biết được lòng hiếu thảo của Dương Tử, đã dùng một viên đơn trong chiếc hồ lô cứu sống mẹ Dương Tử.
Trong tác phẩm Tây Du Ký (Ngô Thừa Ân 1506-1582) có nhiều chi tiết thần tiên thâu tóm yêu tinh cất giữ trong hồ lô. Thái Thượng Lão Quân cũng cất linh đan trong hồ lô tiên, chẳng may bị Tôn Ngộ Không trộm hết. Trong truyền thuyết Đông Du Ký, chiếc hồ lô còn có thể hút cạn nước biển đông.
Bên cạnh Đạo giáo, Phật giáo cũng mượn hình ảnh hồ lô với vai trò của bình linh thủy (nước tạo sự sống), linh vật trừ tà (thu nhận và lưu giữ yêu nghiệt), v.v.. Trong tác phẩm Tây Du Ký, không ít lần các sư đồng đã phải sử dụng đến hồ lô thần để thu phục yêu nghiệt, hoặc làm công cụ vượt sông.
Khác với Đạo giáo và Phật giáo, Nho giáo phủ nhận vai trò văn hóa của chiếc hồ lô, coi đó là một biểu tượng phàm tục, tầm thường. Trong lịch sử phát triển Nho gia, các nho sĩ một mực hoài nghi và phủ nhận tác dụng to lớn của hồ lô. Chẳng hạn, trong suy nghĩ của Khổng Tử, hồ lô và các loại bầu bí nói chung đều là những thứ vô dụng, đồng thời từ chối bình luận về nó. Một ngày nọ, học sinh đến hỏi Khổng Tử về tác dụng quả hồ lô, Khổng Tử đáp “Quả hồ lô thôi thì làm sao? Chỉ cột được (làm phao) chứ có ăn được đâu?” (吾岂匏瓜也哉?焉能系而不食?Ngô khỉ bào qua dã tai, yên năng hệ nhi bất thực”(Luận Ngữ).
3. Hồ lô và hình tượng Phục Hy – Nữ Oa
Thần thoại Phục Hy – Nữ Oa có ở nhiều tộc người thiểu số khác nhau tại Trung Hoa. Nội dung hoàn toàn gắn liền với các chi tiết hồ lô cứu sinh hay hồ lô tái tạo nhân sinh sau nạn đại hồng thủy. Về bản thân hình tượng Phục Hy và Nữ Oa [hình 20], tác giả Văn Nhất Đa đã chứng minh thuyết phục rằng cả hai vốn là hóa thân với hai tên gọi phân biệt nam-nữ, đực-cái của chiếc hồ lô dân gian. Truyền thống một số dân tộc thiểu số coi Phục Hy – Nữ Oa là hai hồ lô tinh. Quả thật, cả Phục Hy và Nữ Oa đều là hóa thân từ một thứ chung nhất: hồ lô.
Tra cứu từ nguyên, chữ “phục” (伏) trong chương Hệ Từ Truyện quyển Dịch cũng là bao (包). Bao (包)và bào (匏)trong tiếng Hán cổ cùng nghĩa (theo Thuyết Văn). Vậy Phục Hy (伏羲)chính là Bào Hy (匏羲). Từ bào hy trong tiếng Hán cổ thường dùng để chỉ hồ lô. Từ Hy (羲) (trong Phục Hy伏羲) theo các quyển Quảng Nhã, Trang Tử, Điền Tử, Quản Tử, Tuân Tử, Nguyệt Lệnh.. có thể viết thành hí (戏) hoặc hy (希)(ba chữ cùng nghĩa), chỉ chiếc gáo hồ lô. Rõ ràng Phục Hy chính là Bào Hy, là hóa thân của hồ lô. Ở một phân tích khác, Phục Hy còn được hiểu là “Nữ thần hồ lô” [Lâm Hà 2001: 152]. Ở đây, chúng tôi không đặt vấn đề truy nghiệm Phục Hy là nam thần hay nữ thần mà chỉ dừng lại ở chỗ Phục Hy xuất phát từ hình tượng hồ lô.
Trong từ Nữ Oa (女娲), từ Nữ chỉ giống cái, còn từ Oa (娲) cũng có nguồn gốc từ hồ lô mà ra. Theo các quyển Đại Hoảng Tây Kinh, Hán Thư, Liệt Tử, Quảng Vận, Tập Vận.., Oa (娲) chính là qua (瓜), tức danh từ chỉ hồ lô, bầu bí. Sách Lộ Sử chương Hậu Kỷ cho rằng Nữ Oa (女娲) là Bao Oa (娲). Qua so sánh âm, Bao Oa chính là Bào Qua (匏瓜). Cả Bào Qua, Bào Hồ, Bao Oa đều do biến âm mà thành. Trong tiếng Hán cổ, Hy và Oa do chuyển âm tạo nên. Do vậy, Phục Hy và Nữ Oa tuy hai mà một, đều là hóa thân của hồ lô. Nữ Oa mang tính âm, còn được dân gian gọi là Nữ Bào Hồ (女匏瓠), Nữ Phục Hy (女伏羲). Một điều lý thú nữa là câu chuyện Phục Hy – Nữ Oa thường gắn với thần thoại hồ lô, và chỉ ở các tộc người coi trọng hồ lô mới tồn tại sự tích Phục Hy – Nữ Oa [Văn Nhất Đa 2001: 132-133]. Vậy, Phục Hy = Nữ Oa = hồ lô.
Dân gian Trung Quốc có câu “Nữ Oa làm khèn” (女娲作笙Nữ Oa tác sênh), hoàn toàn phù hợp với sự thật là khèn (sênh) được làm từ hồ lô. Sách Bạch Hổ Thông viết “…Hy viết sênh..” (瓠曰笙). Người Miêu gọi hồ lô là sênh. Sách Lễ Ký còn viết “Nữ Oa chi sênh hoàng” (女娲之笙簧), sách Thế Bản viết “Nữ Oa tác sênh hoàng” (女娲作笙簧).
Ngày nay, người Miêu cho rằng bí đỏ là hậu duệ của Phục Hy – Nữ Oa. Người Hán vẫn coi hồ lô là hiện thân của Phục Hy – Nữ Oa. Không ít tộc người (kể cả người Hán) coi Phục Hy – Nữ Oa là thủy tổ, vô hình trung đề cao đặc tính phồn thực của giống hồ lô thiên nhiên.
III. Các đặc trưng văn hoá của hình tượng hồ lô
1. Các đặc trưng văn hóa của hình tượng hồ lô
a. Tính biểu trưng
Từ khi chiếc hồ lô tự nhiên thăng hoa, hình tượng hồ lô được dân gian các tộc người Trung Hoa gửi gắm vào đấy nhiều ước vọng ở đời:
- Biểu trưng nữ tính - phồn thực: đặc trưng nổi bật nhất của hình ảnh chiếc hồ lô dân gian.
Về hình dáng, hồ lô được cho là 1) giống với bộ ngực căng tròn của người mẹ đang trong thời kì cho con bú; 2) giống với sinh thực khí nữ (nội âm lẫn ngoại âm); 3) giống với phần thân của người phụ nữ có mang. Ngoài ra, hồ lô nhiều hạt, dễ sinh sôi nên được dùng với ý niệm cầu mong phồn thực.
Tại vùng Đài Giang và Kiếm Hà tỉnh Quý Châu, người Miêu có tục “hồ lô phóng tinh rượu” vào ngày tế bái tổ tiên. Thanh niên lấy hồ lô đựng đầy tinh rượu, sau đó cầm hồ lô phóng tinh rượu về phía các cô gái trẻ. Các cô gái này hân hoan đón nhận tinh rượu như đón nhận biểu trưng “dương tinh” cần thiết cho sự sinh sôi.
- Biểu trưng may mắn: theo phân tích ngữ âm – ngữ nghĩa ở phần tên gọi hồ lô thì hình ảnh hồ lô mang biểu trưng của phúc lộc, thăng tiến. Các tộc người Miêu, Bố Y vùng Quý Châu có tục rước thần hồ lô. Dân gian dùng gỗ đẽo thành mặt nạ hồ lô thần có tay cầm. Phụ nữ tế tự hồ lô thần để cầu hạnh phúc tương lai [www.china.com]. Người La Hô kết hình hồ lô trên cổ áo, hàm ý may mắn v.v…
- Biểu trưng tổ tiên: Người Cơ Nặc 基诺 /Ji Nuo/ và người Di 彝/Yí/ là các trường hợp điển hình. Danh từ riêng Cơ Nặc có nghĩa là “(giống người) chui từ hồ lô ra” [www.nikerchina.com]. Ngoài người Cơ Nặc, người Di Vân Nam cũng coi hồ lô là hóa thân của tổ tiên. Trên bàn thờ hay vách thờ thường có khắc họa hình ảnh hai chiếc hồ lô (mỗi chiếc tượng trưng cho một thế hệ (nội, cha). Mỗi khi gia đình có một vong linh mới thì mời vu sư đến cử hành đại lễ gửi linh hồn vào chiếc hồ lô mới. Cùng lúc đó mang hồ lô chứa linh hồn của thế hệ cao nhất thiêu hủy. Trong phong tục này, tàn dư của chế độ mẫu hệ vẫn còn lưu giữ rất sinh động. Nếu người mẹ qua đời trước, người Di rước vu sư làm lễ gửi linh hồn vào hồ lô cái. Đến khi người cha qua đời, vu sư lai tiếp tục làm lễ gửi linh hồn cha vào cùng. Nếu cha mất trước, vu sư gửi tạm linh hồn vào một chiếc hồ lô đực nào đó, đến khi người mẹ mất, người ta đổi một chiếc hồ lô khác, gửi linh hồn người mẹ vào trước rồi rước linh hồn người cha vào cùng [Từ Kiệt Thuấn 2001: 96].
- Biểu trương hài hòa âm dương: Hồ lô là loại bầu bí có hoa tự thụ phấn, do vậy nó tự mang trong mình sự hài hòa âm dương (nhụy và nhị). Cũng từ đó, theo dân gian Trung Hoa, Phục Hy – Nữ Oa - hóa thân của hồ lô tượng trưng cho hình ảnh người cha thủy tổ và người mẹ thủy tổ, cả hai hòa hợp sinh ra nhân loại. Trên vách đá hang động có từ thời tiền sử, hình ảnh Phục Hy – Nữ Oa được vẽ thành đầu người thân rắn, hai đuôi quấn vào nhau thể hiện sự khắng khít âm dương. Thần thoại người A Xương kể rằng Thiên Công Địa Mẫu yêu nhau, mang thai chín năm thì sinh được một hạt hồ lô. Về sau, từ trong hồ lô, thủy tổ nhân loại bước ra [Lâm Hà 2001: 139]. Xa hơn nữa, hồ lô còn là biểu trưng của tình yêu.
- Biểu trưng vũ trụ: Trong Đạo giáo, không gian bên trong là thế giới của thần tiên, là vũ trụ độc lập với bên ngoài, có thể biến to, cũng có thể thu nhỏ, thông với bên ngoài bằng một cửa hẹp: miệng hồ lô. Vũ trụ bên trong hồ lô chỉ có hạnh húc, có tiên cảnh, có sự thăng hoa mà không hề có chiến tranh, bất ổn của thế giới nhân sinh. Tác phẩm Thần Tiên Truyện của Cát Hồng (葛洪284-364) là một ví dụ:
Truyện kể rằng Phí Trường Phòng (费长房) làm tiểu quan trông chợ vùng Nhữ Nam (nay Hà Nam). Trong vùng có lão Hồ công đến chợ bán thuốc. Thuốc rất hiệu nghiệm nên ông rất được tin yêu. Ông đựng thuốc trong chiếc hồ lô bên thân. Tối, ông chui vào hồ lô mà ngủ. Phí Trường Phòng rình biết được, bèn tìm cách tiếp cận Hồ công. Ngày nọ, Hồ công dặn Phí Trường Phòng trời tối hãy đến. Đúng hẹn, Hồ công mời Phí Trường Phòng cùng ngao du bên trong hồ lô. Trong hồ lô, Phí Trường Phòng nhìn thấy khắp nơi đều là tiên cảnh, đài các, sơn thủy…
Bên trong hồ lô không chỉ có vũ trụ riêng mà còn có cả chuỗi không gian độc lập với thế giới bên ngoài: “non tiên chỉ bảy ngày, thế giới đã ngàn năm” (山中方七日,世上已千年sơn trung phương thất nhật, thế thượng dĩ thiên niên).
…Phí Trường Phòng chỉ ngao du hồ lô chưa đến một ngày đã trở về. Người nhà của ông không nhận ông, cho rằng ông đã chết từ bấy lâu rồi. Thì ra, thời gian đã trôi qua hơn một năm.
Trong một tích Đạo giáo khác, hai đạo sĩ Lưu Thần và Nguyễn Triệu lên tiên đài, sống với các tiên nữ chỉ non nửa năm mà khi trở lại hạ giới, thời gian đã hơn 10 đời trôi qua [Trình Tường 2001: 122-123]. Từ điểm này chúng ta hiểu được vì sao các đạo sĩ thường lên non tu tiên ở những nơi “sơn cùng thủy tận”, đặc biệt là các “tiên động” (hang động) mà lối ra vào đều rất hẹp.
- Biểu trưng linh thiêng: một số tộc người vùng Tây Nam như Di, Miêu, Thủy, Cách Lao còn lưu truyền tục lấy hồ lô vẽ thành đầu rồng hay mộc hồ treo ở cửa ra vào với mục đích xua đuổi tà ma [www.china.com]. Khi cúng tế tổ tiên, một số dân tộc thiểu số mang hồ lô treo ở phía trước đàn tế, ngụ ý cấm người lạ vào nhà [Lâm Hà 2001: 145]. Trẻ em đeo chiếc hồ lô nhỏ trước ngực làm bùa và hy vọng đứa bé ấy sẽ có em trai, em gái về sau. Vào ngày tết Đoan ngọ, người dân mang hồ lô ra treo ngược trên đòn giông nhà, đợi đến giữa trưa thì mang xuống vứt đi, ngụ ý hồ lô hút hết độc khí, ám khí, hút hết xui xẻo.
b. Tính đa dụng
Tất cả các biểu trưng trên đây của hình ảnh chiếc hồ lô trong văn hóa đã tạo nên tính đa dụng của nó. Hình ảnh chiếc hồ lô vừa gần gũi, giản dị, phàm tục lại vừa linh thiêng, gợi vào lòng người một ý niệm xa xôi của biểu tượng thần tiên. Chiếc hồ lô xuất thân từ đời sống thường nhật của tầng lớp dân dã, qua bàn tay chế tác, khắc vẽ khéo léo của nghệ nhân đã trở thành những vật thưởng ngoạn của cả tầng lớp quý tộc lẫn bình dân. Hồ lô vừa là một dụng cụ đắc lực trong đời sống thường nhật (bình đựng, dụng cụ gieo trồng, v.v.) vừa là biểu tượng của tâm linh. Hồ lô mang trong mình nhiều ý nghĩa thiết thực nhưng cũng không kém phần triết lý: biểu trưng của linh hồn tổ tiên; của phúc lộc; của nữ tính; của ước vọng phồn thực; của ước vọng viên mãn, sung túc…
c. Tính phổ biến
Với các tính năng đặc thù của mình, hình ảnh chiếc hồ lô đã trở thành biểu tượng văn hóa của hàng loạt các tộc người tại Trung Hoa. Nó không chỉ là sản phẩm văn hóa của riêng tộc người nào, mà là thứ linh vật chung của cả khối cộng đồng. Xét về phân bố không gian, quả hồ lô được trồng rộng khắp cả vùng Nam Dương Tử, vùng Tây Nam Trung Quốc và một số nơi ở Hoa Bắc như Sơn Đông, Cam Túc, Thiểm Tây v.v. [Du Tu Linh 2001]. Với đặc tính dễ trồng, dễ sinh sôi, dễ thu hoạch, hồ lô tư nhiên đã trở nên rất phổ biến trong số các loại cây rau, củ, quả tại các địa phương. Xuất phát từ phạm vi không gian rộng như thế, khi hồ lô trở thành một thứ biểu tượng, nó hiện diện khắp nơi tại các vùng có trồng hồ lô. Xa hơn thế, qua quá trình giao lưu-truyền bá văn hóa, hình ảnh chiếc hồ lô văn hóa đã lan rộng khắp đất nước Trung Hoa.
Tại Đông Nam Á, hình tượng hồ lô sinh sôi cũng xuất hiện rộng rãi trong văn hoá các dân tộc với nhiều hình tượng bầu bí. Công năng và nghĩa văn hóa của chiếc hồ lô cũng phong phú như ở Trung Hoa. Tại Việt Nam, tiêu biểu là vùng văn hóa Tây Nguyên, người dân vẫn dùng bình (bầu/nậm) hồ lô để đựng rượu, thuốc và các vật dụng cần thiết khác. Trong văn hoá người Việt, hình ảnh chiếc hồ lô sinh sôi được thay thế bằng một loại hình tượng gắn với tình đoàn kết các dân tộc anh em: sự tích quả bầu sinh ra các tộc người Việt Nam.
2. Chất phương Nam trong biểu tượng hồ lô
Xét về mặt không gian, hình tượng hồ lô phát sinh đầu tiên ở những vùng trồng trọt hồ lô tự nhiên. Tại Trung Hoa, đó là các vùng đất tương đối ẩm ướt, thuộc các đới khí hậu ôn đới ấm, cận thiệt đới tại lưu vực Dương Tử, Hoa Nam, Hoa Trung, cao nguyên Vân Quý v.v.. Các khu vực này trong lịch sử là vùng đất cư trú của các cộng đồng cư dân phi Hán như Miêu Man, Bách Bộc và Bách Việt. Cả ba cộng đồng này đều mang nguồn gốc nông nghiệp phương Nam. Điều này cũng dễ dàng lý giải, bởi vì hồ lô (bầu bí) là sản vật phổ biến của nền văn minh gieo trồng Đông Nam Á cổ. Chỉ mãi về sau, khi mà kỹ thuật canh nông của người Trung Hoa đã tiến bộ, người ta đã cho lai giống hồ lô và đem gieo trồng ở một số vùng đồng bằng Hoàng Hà và Trung Nguyên [Triệu Thân 2001: 87]. Ngày nay, các vùng quê Ngũ Lĩnh, Hải Nam vẫn trồng giàn hồ lô trước cửa nhà vừa cung cấp một lượng thực phẩm nhất định vừa thể hiện ước vọng phồn sinh.
Xét về mặt chủ thể, trong số 26 dân tộc thiểu số ở Trung Quốc có tục sùng bái hồ lô được khảo sát thì đa phần là các tộc người thiểu số sống rải rác ở khu vực Ngũ Lĩnh và cao nguyên Vân Quý. Ngay ở tộc người Hán thì việc sử dụng hồ lô làm biểu tượng văn hóa cũng chỉ phổ biến nhất tại miền Nam. Quá trình cộng cư, hợp chủng và giao thoa văn hóa đã “trao tay” cư dân người Hán truyền thống quý trọng và sùng bái hồ lô.
Xét trên bình diện văn hóa dân gian thì hai lĩnh vực tín ngưỡng – tôn giáo và thần thoại thể hiện nhiều chất phương Nam nhất của hình tượng hồ lô. Trong tín ngưỡng – tôn giáo, thực tế tục sùng bái hồ lô gắn liền với tục sùng bái Phục Hy – Nữ Oa, sùng bái Bàn Hồ thần, sùng bái biểu tượng phồn thực v.v. phổ biến nhất ở vùng văn minh gieo trồng Nam Dương Tử. Đích xác hơn, các tín ngưỡng này thể hiện sâu sắc và gần với thời viễn cổ nhất trong văn hóa dân gian của các dân tộc thiểu số Nam Man, chẳng hạn như người Cơ Nặc ở Vân Nam, người Di ở cao nguyên Vân Quý và lòng chảo Tứ Xuyên, người Lê ở Hải Nam, người Choang ở Quảng Tây v.v.. Với tố chất nông nghiệp, cư dân Nam Trung Hoa vốn có tư duy trừu tượng, tổng hợp ở mức cao đã “biến” chiếc hồ lô thiên nhiên trở thành một thứ linh vật, một biểu tượng tâm linh, văn hóa. Còn trong tôn giáo, chỉ có Đạo giáo và Phật giáo tiếp nhận hình tượng hồ lô một cách tích cực, sâu sắc, đặc biệt là Đạo giáo. Hồ lô gắn liền với thế giới thần tiên, nơi chứa đựng bí quyết trường sinh bất lão, báu vật của các đạo sĩ. Đạo giáo hình thành ở phương Nam nên triết lý - tư tưởng của Đạo giáo thấm đượm tinh thần phương Nam, gần gũi với cuộc sống cư dân phương Nam. Ngược lại, Nho giáo – sản phẩm của tư duy quan phương phương Bắc – lại coi hồ lô là một thứ vặt vãnh, coi tục sùng bái hồ lô là một thứ “dị đạo” [Từ Kiệt Thuấn 2001: 98]. Còn trong thần thoại thì như đã chứng minh trên, không nơi nào ở Trung Hoa bằng vùng đất phương Nam, hồ lô lại thẩm thấu vào thần thoại sâu sắc đến vậy, phổ biến đến vậy. Hơn thế nữa, thần thoại hồ lô Nam Trung Hoa phong phú về chi tiết song có chung những mô típ sản sinh hoặc cứu sinh, tái tạo nhân loại như ở truyền thống các dân tộc Đông Nam Á cổ khác.
Với tất cả các phân tích trên, hình tượng hồ lô đã, đang và sẽ mãi là biểu tượng văn hóa đặc sắc của các cư dân phương Nam gắn liền với nền văn minh gieo trồng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa.
Tài liệu tham khảo
1. Lương Duy Thứ (cb). Đại cương văn hóa phương Đông. – NXB ĐHQG Tp. HCM, 2000.
2. Nguyễn Đức Hiệp (2007) “Đài Loan và cội nguồn Bách Việt”, website www.vanhoahoc.edu.vn
3. Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. – NXB Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2004 (lần 1: 1996).
4. 钟敬文。“葫芦是人文瓜果”,《葫芦与象征》。游琪,刘锡诚主编,北京商务印书馆,2001. (Chung Kính Văn. “Hồ lô là loại bầu bí nhân văn”, Hồ lô và tượng trưng. Du Kì – Lưu Tích Thành (cb). – Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2001).
5. 易谋远。“中华民族之祖先是否彝族灵祖葫芦中的伏羲女娲?“,《民族研究》。第3期,2001,33-39页。(Dịch Mưu Viễn. “Tổ tiên dân tộc Trung Hoa có phải là Phục Hy và Nữ Oa trong hồ lô linh tổ của dân tộc Di?”, Tạp chí Nghiên cứu dân tộc, kì 3, 1994, tr. 33-39).
6. 叶明鉴。《中国护身符》。花城出版社,1993。(Diệp Minh Giám. Bùa hộ thân Trung Quốc. – NXB Hoa Thành, 1993).
7. 游修龄。“葫芦的家世”,《葫芦与象征》。游琪,刘锡诚主编,北京商务印书馆,2001。(Du Tu Linh. “Gia thế hồ lô”, Hồ lô và tượng trưng. Du Kì – Lưu Tích Thành (cb). – Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2001).
8. 纪光辉。“谈葫芦艺术表现”(Kỷ Quang Huy. “Bàn về thể hiện nghệ thuật hồ lô”, website: http://www.blog126.cn/24131/viewspace-51725.html).
9. 林何。“葫芦文化与葫芦神话”,《葫芦与象征》。游琪,刘锡诚主编,北京商务印书馆,2001。(Lâm Hà. “Văn hóa hồ lô và thần thoại hồ lô”, Hồ lô và tượng trưng. Du Kì – Lưu Tích Thành (cb). – Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2001).
10. 李露露。“海南黎族古老的水上交通工具” ,《葫芦与象征》。游琪,刘锡诚主编,北京商务印书馆,2001。(Lý Lộ Lộ. “Công cụ giao thông đường thủy cổ của người Lê ở Hải Nam”, Hồ lô và tượng trưng. Du Kì – Lưu Tích Thành (cb). – Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2001).
11. 刘尧汉。“论中华葫芦文化”,《葫芦与象征》。游琪,刘锡诚主编,北京商务印书馆,2001。(Lưu Nghiêu Hán. “Nói về văn hóa hồ lô Trung Hoa”, Luận đàn văn học dân gian, kì 3, 1987, đăng lại trên Hồ lô và tượng trưng. Du Kì – Lưu Tích Thành (cb). – Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2001).
12. 季羡林。“关于葫芦神话”,《葫芦与象征》。游琪,刘锡诚主编,北京商务印书馆,2001。(Quý Mộ Lâm. “Về thần thoại hồ lô”, Hồ lô và tượng trưng. Du Kì – Lưu Tích Thành (cb). – Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2001).
13. 山漫。“葫芦文化的民俗位置”,《葫芦与象征》。游琪,刘锡诚主编,北京商务印书馆,2001。(Sơn Mạn. “Vị trí dân tục của văn hóa hồ lô”, Hồ lô và tượng trưng. Du Kì – Lưu Tích Thành (cb). – Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2001).
14. 石建忠。“盘瓠神话与苗族渊源”,《中南民族学院学报》第1期, 1992, 50-53页。(Thạch Kiện Trung. “Thần thoại Bàn Hồ và nguồn gốc người Miêu”, Học báo Học viện Dân tộc Trung Nam, kì 1, 1992, tr. 50-53).
15. 宋兆麟。“葫芦的功能与栽培技术”,《葫芦与象征》。游琪,刘锡诚主编,北京商务印书馆,2001。(Tống Triệu Lân. “Công năng và kỹ thuật trồng của hồ lô”, Hồ lô và tượng trưng. Du Kì – Lưu Tích Thành (cb). – Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2001).
16. 赵申。“中华葫芦文化谈略”,《葫芦与象征》。游琪,刘锡诚主编,北京商务印书馆,2001。(Triệu Thân. “Lược đàm văn hóa hồ lô Trung Hoa”, Hồ lô và tượng trưng. Du Kì – Lưu Tích Thành (cb). – Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2001).
17. 呈祥。“葫芦文化和中国人的宇宙意误解”,《葫芦与象征》。游琪,刘锡诚主编,北京商务印书馆,2001.(Trình Tường. “Văn hóa hồ lô và ý thức vũ trụ của người Trung Quốc”, Hồ lô và tượng trưng. Du Kì – Lưu Tích Thành (cb). – Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2001).
18. 徐杰舜。“中国葫芦文化的人类学解读” ,《葫芦与象征》。游琪,刘锡诚主编,北京商务印书馆,2001。(Từ Kiệt Thuấn. “Văn hóa hồ lô Trung Quốc dưới góc nhìn nhân loại học”. Hồ lô và tượng trưng. Du Kì – Lưu Tích Thành (cb). – Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2001, tr. 91-106).
19. 闻一多。“伏羲与葫芦”,《葫芦与象征》。游琪,刘锡诚主编,北京商务印书馆,2001。(Văn Nhất Đa. “Phục Hy và hồ lô”, Hồ lô và tượng trưng. Du Kì – Lưu Tích Thành (cb). – Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2001).
20. 王世襄。“试谈对葫芦文化的调查研究”,《葫芦与象征》。游琪,刘锡诚主编,北京商务印书馆,2001。 (Vương Thế Tương. “Nghiên cứu điều tra về văn hóa hồ lô”, Hồ lô và tượng trưng. Du Kì – Lưu Tích Thành (cb). – Thương vụ ấn thư quán, Bắc Kinh, 2001).
21. www.china.com.cn/chinese/zhuanti/zgnwh/432407.html
22. www.cwineasy.com/hulu/index.html
23. www.nikerchina.com/minyicaifeng/ququhulu2.html