1. Nguồn gốc về con số 3 ở người Hàn
Từ xa xưa cho tới ngày nay, khi uống rượu soju, người Hàn thường có thói quen vẩy một chút rượu ra xung quanh. Đặc biệt, sau khi kết thúc mùa thu, họ thường bẻ một mẩu bánh tteok ném thật xa. Nghi lễ này phải được làm 3 lần, không được làm 2 hoặc 4 lần (1). Bên cạnh đó, ở phường Kalme giáp Seoul, mỗi năm vào mùa xuân người ta lại tổ chức đô đường goot (2) một cách rất trọng thể. Trong khi tiến hành, họ có phong tục giải xui vào ngày mùng 1 tháng giêng. Sau khi chọn tế quan, vu đường, họ bước vào từng nhà để xả xui, còn chủ nhà thì chuẩn bị đồ ăn thức uống. Trên bàn bao gồm 3 ly rượu makkeolli (3), 3 bát cơm, 3 chén củ cái trắng. Nhà nào cũng dọn ra mỗi loại 3 bát, tất cả là 9 bát. Trước đây, không chỉ có ở làng Kalme, mà hầu như tại địa phương nào của Hàn Quốc, người Hàn cũng có phong tục này. Khi dọn bàn cúng người ta cũng dọn đồ cúng với con số 3, thậm chí, khi treo kumjul (sợi dây) ở thần đường, vãi đất vàng để đuổi ác quỷ, người ta cũng vãi theo nguyên tắc bên tả, bên hữu, mỗi bên 3 đống.
Tại thủ đô Kaeseong trước đây, người ta thường đặt con số tam tô để cầu vận, nhằm đem đến sự thịnh vượng cho nước nhà. Trong lễ này họ đặt ở bên trái, bên phải và hướng bắc. Điều này bắt nguồn từ niềm tin của người Hàn - khi con số 3 nổi lên, một cái gì đó có thể khiến cho đất nước được hưng thịnh.
Ngoài ra, ngay từ thời xa xưa, người Hàn đã chia bầu trời làm tam đán và nhị thập bát tú. Chòm sao nhị thập bát tú ấy lấy tam thái tinh làm chuẩn, nên tam đán còn gọi là tam đại. Do đó, người Triều Tiên cổ đã quan sát chòm sao và vũ trụ để nhận diện con số 3, nên nguồn gốc về con số 3 của người Hàn xuất hiện cùng với sự khởi đầu của nước Triều Tiên từ năm 2333 trước CN.
2. Quan niệm về số 3 ở người Hàn
Quan niệm về các số trong tam tài thuyết của phương Đông cổ đại được sử dụng khá rộng rãi thông qua việc ghép quan niệm thiên, địa, nhân vào số 3. Tam tài thuyết của phương Đông là cùng một nguyên tắc với văn hóa phương Tây. Quan niệm của người phương Đông coi số 3 là căn bản của chữ có âm tiết lẻ, nên họ quy định thiên là hình ảnh của trời, nhất là hình ảnh của đất, nhân là hình ảnh người đang đứng. Bởi họ tin rằng, thế giới được tạo nên bởi trời, đất và con người. Trong thần thoại kiến quốc của người Hàn, Hwanung (thiên) hạ cánh xuống đỉnh núi cao nhất Baekdu (địa) lấy nàng Gấu (con của đất) sinh ra Dangun (nhân). Nơi Hwanung hạ cánh lấy Ungnyo và sinh ra Dangun là gốc cây thần chiên đàn. Cây vươn cao trên đỉnh núi cao nhất chính là biểu tượng cho gạch nối giữa trời và đất. Điều này cũng thể hiện rõ nét yếu tố thiên - địa - nhân hợp nhất.
Số 3 trong thế giới tự nhiên khá quen thuộc trong đời sống của cư dân trên toàn thế giới nói chung, người Hàn nói riêng. Quan niệm về số 3 của người phương Đông và phương Tây chỉ khác biệt về phương pháp nhận thức nó mà thôi. Phần bộc lộ tuyệt đối nhất của khái niệm về số 3 của phương Tây vẫn là ba ngôi hợp một, hay còn gọi là tam vị nhất thể (4), xuất hiện lần đầu tiên trong thời kỳ Cơ đốc giáo, sau đó nó trở thành con số của sự hoàn hảo, trọn vẹn.
Ở Hàn Quốc, theo báo cáo của ngành nhân loại học khi điều tra về mức độ hiểu biết về các con số của người nguyên thủy, thì người nguyên thủy hiểu số 1, 2, 3 một cách dễ dàng nhất (5). Điều này có nghĩa là con số 3 bắt đầu từ chỗ là một con số nhỏ bé. Qua con số 0, 1, 2 là con số 3.
Đặc điểm chung dễ nhận thấy ở người Hàn và người Việt - khi học số, trẻ em thường học 1, 2, 3,... sau đó dừng lại. Khi học thuộc 3 con số này, chúng sẽ học số 5 - phạm trù của 5 ngón tay, sau đó học đến số 10 bằng cách đếm các ngón tay của hai bàn tay. Cho nên, số 3 khá thân thuộc với con người, như một vết tích khắc ghi một cách vô thức trong tâm trí mỗi người trên thế giới. Ở Trung Hoa, số 3 cũng được sử dụng một cách thường xuyên. Các đồ cúng tế tiêu biểu của nền văn hóa đồng thau Hán tộc phải gồm 3 chân, nên chữ đỉnh nghĩa là tế khí (vật dùng để tế lễ) - hình tượng chân bộ ba. Người Việt và người Hàn trong quá trình tiếp nhận chữ Hán của người Trung Hoa đã coi trọng khái niệm số 3 trong Hán văn. Trong Chu tử gia lễ nhấn mạnh tam cương, ngũ thường, tam cương hành thực đồ, tam nhật tang, tam bái, tam sắc thực quả đều liên quan tới số 3.
Trong khu vực văn hóa Hán tự, người ta giải thích chữ Hán để cho rằng, nhất và nhị kết hợp lại thành tam (6). Theo Joo Kang Huyn, nếu dựng đứng chữ tam sẽ thành chữ xuyên (dòng sông, dòng suối) và nó cũng có nghĩa là vô tận. Từ thời thượng cổ, số 3 đã là biểu tượng của sự hoàn hảo. Phật giáo thì dùng một từ phức tạp hơn gọi là tam tính, có thuyết coi toàn bộ thế gian pháp gồm 3 yếu tố: thiện, ác, vô ký. Cho nên, thế giới được nhìn qua quan điểm tam tính này không phải chỉ là vô - không có, mà cũng có thể trở thành hữu - có. Chẳng hạn, tam giới chia tam mai - trạng thái yên tĩnh của tâm hồn thông qua sự tập trung thuần túy của tam quy ỷ tức là phật bảo, pháp bảo, tăng bảo; thế giới của chúng sinh thành dục giới, sắc giới và vô sắc giới đều là những triết lý bắt nguồn từ Phật giáo.
Người Việt và người Hàn luôn coi những thiên tai và sự thiệt hại do con người gây ra là tam tai. Người Hàn đã đối phó với những tình huống đó bằng cách yểm bùa. Giống như người Hán, người Việt, ở người Hàn cũng có những số lẻ trùng lặp nhau. Chẳng hạn, tết Nguyên đán là mùng 1 tháng giêng, tết Thanh minh mùng 3-3, tết Đoan ngọ mùng 5-5,... Tuy nhiên, ít ai quan tâm đến mùng 2-2, mùng 4-4, mùng 6-6, mùng 8-8, mùng 10-10 (7).
Ở người Việt và người Hàn, quan niệm thích số 3 cũng liên quan đến việc ưa thích số lẻ hơn số chẵn. Bên cạnh đó, số 3 luôn luôn xuất hiện trong thần thoại và phong tục của dân tộc Hàn và Việt.
Trong shaman giáo Hàn Quốc và tín ngưỡng thờ mẫu Việt Nam đều cho thấy sự hiện diện của cái gọi là tam vị nhất thể (tam tài): tam tòa thánh mẫu chính là một bộ tam tài của tín ngưỡng thờ mẫu Việt Nam; ba vị thần tổ sáng lập ra truyền thống shaman giáo Hàn Quốc có tên Hwang In, Shang Ung, Hwang Kyum; chủ nghĩa tượng trưng tam vị nhất thể cũng thể hiện rõ trong hầu đồng của người Hàn. Chẳng hạn, một điệu nhảy và lời phán truyền của thần được lặp lại 3 lần với ý nghĩa đầy đủ và hoàn tất những mục tiêu của nghi lễ. Bởi vì, theo họ số 3 là con số thiêng liêng, thể hiện sự kết thúc, hoàn thiện.
Bên cạnh những điểm tương đồng về ý nghĩa số 3, ở người Hàn và người Việt còn có những điểm dị biệt.
Tại Hàn Quốc, trong chùa Kaetae ở Yeonsan, Nonsan trên đất Bách Tế ngày xưa, nơi kỷ niệm sự kiện vua Cao Ly Vương Kiến trấn áp Hậu Bách Tế và lập nên nước Cao Ly, nơi có đền Tangun, chúng ta có thể nhận thấy các tòa nhà có một đặc điểm là đều được gắn liền với nhau thành 3 khu. Từ nửa sau thập niên 80 của TK XX, người Hàn bắt đầu quan tâm đến lịch sử cổ đại. Hiện nay, ở người Hàn đang nhấn mạnh tính hiện thực của thần thoại Tangun bằng một số việc như xây dựng lăng Tangun khá hoành tráng. Cho nên, số 3 của huyết thống Triều Tiên vẫn chưa hết vai trò của nó trong đời sống của người Hàn (8). Ngoài ra, theo quan niệm của người Hàn, số 3 còn là sự kết hợp của việc cầu phúc mang tính chú thuật trong dân gian. Theo họ, tam tai pháp không chỉ là những tai họa của cá nhân, mà nó còn là hỏa tai, thủy tai và phong tai. Bên cạnh tam tai lớn còn có tam tai nhỏ (tức là đao binh tai, dịch bệnh tai). Trước đây, để tránh tam tai người Hàn sẽ vẽ 3 con chim ưng gắn trên trụ cửa. Cho đến thời hậu kỳ Triều Tiên, người Hàn không vẽ chim ưng, mà thay vào đó là gắn bùa 3 con chim ưng 3 đầu 1 chân. Đối với những người sống ở khu vực luôn phải đối mặt với thiên tai, thì chim ưng 3 đầu 1 chân chính là biểu tượng và niềm khao khát hạnh phúc của họ. Để thể hiện sức mạnh của con chim ưng này, người Hàn đã gửi gắm ước mơ của mình thông qua đôi mắt sắc liếc của nó. Truyện Mai trường thọ ở Jangsan, tỉnh Hwanghae, nơi chất chứa ý chí quật cường của dân chúng, cũng mang một mong ước như vậy (9).
Tại các ngôi mộ thời Cao Câu Ly của Jipan có con quạ 3 chân - con vật tượng trưng của Cao Câu Ly. Trong ngôi mộ tối, một con quạ 3 chân 1 đầu bay qua bay lại. Bí mật về con quạ 3 chân nằm ngay trong giải mộ thấu (10). Cuốn Tam quốc chí quyển 1 chép lại như sau: “Cheonje ngồi trên một chiếc ngũ long xa, đã đến thành lập nên thủ đô Hột thăng cốt thành, xưng vương đặt tên nước là Bắc Phủ và tự xưng là Hae Mo Su. Ông sinh được người con trai và đặt tên là Phù Lâu. Sau đó, theo mệnh lệnh của thượng đế, vua rời đô Đông Phù Dư và Đông Minh Đế nối tiếp Bắc Phù Dư họ nổi dậy thành lập nước ở Tốt bản châu chính là thủy tổ của Cao Câu Ly”(11). Ở người Hàn con quạ 3 chân tượng trưng cho mặt trời chính là hình ảnh tượng trưng mang tính quyết định bày tỏ thái dương quan của xã hội cổ đại. Theo Joo Kang Huyn, con quạ 3 chân không chỉ riêng ở Cao Câu Ly, mà nó còn là mặt trời của nước Tân La. Trong Kinh Thi của Trung Hoa có đề cập đến huyền điểu do vua trời ban xuống, nên huyền điểu cũng có nghĩa là con quạ. Huyền điểu này không phải là con quạ thường, mà là con khẩu ô, tam túc ô, dương ô tượng trưng cho thần mặt trời. Từ những điều đã nêu có thể khẳng định rằng, trong thời kỳ Cao Câu Ly, quạ được sùng bái như một tín ngưỡng thờ vật tổ. Con quạ 3 chân tượng trưng cho thần mặt trời và con chim ưng 3 đầu 1 chân của dân chúng thời Triều Tiên sau một thời gian dài đều là vật tượng trưng mang tính chất thờ cúng trên cơ sở số 3. Một con thì 3 đầu 1 chân, con khác thì 3 chân 1 đầu. Điều mà hai con vật này tượng trưng thì khác nhau, nhưng trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Hàn từ thời kỳ Cao Câu Ly đến thời Triều Tiên, số 3 luôn có vai trò tích cực đối với lịch sử. Ở Hàn, những con vật này là hình ảnh tượng trưng cho mỹ thuật tiêu biểu nhất của số 3 (12).
Khác với người Hàn, số 3 của người Việt còn để chỉ sự vững chắc không gì lay chuyển được. Bên cạnh đó, số 3 còn để nói về tinh thần đoàn kết của cộng đồng Việt tộc trong nhu cầu trị thủy và chống giặc ngoại xâm. Ngoài ra, ở người Việt còn có kết cấu nhà 3 gian, cổng chùa thường là cổng tam quan,... đều là số 3. Theo hiểu biết của chúng tôi, ở người Việt số 2 hoặc số 4 ít khi được người xưa nhắc đến. Bên cạnh đó, người Việt thường thắp nhang với con số lẻ như 1, 3, 5...; nhưng chủ yếu là 3 nén.
Một điểm khác nữa, ở người Việt do ảnh hưởng của văn hóa Hán khá đậm nét, nên trong mỗi gia đình thường có một bộ tam đa (phúc, lộc, thọ). Tuy nhiên, người Việt lại thích đa phúc, vì trong phúc đã có thọ và lộc. Do đó, người Việt rất sợ đa thọ là đa nhục.
Người Việt còn có quan niệm 3 hồn 9 vía. 3 hồn bao gồm tinh, khí và thần. Hồn vía được người xưa dùng để giải thích các hiện tượng như trẻ con hay đau ốm, hiện tượng ngủ mê, ngất, chết,... Trong hồn và vía thì vía phụ thuộc vào thể xác: có người lành vía, người dữ vía, có người yếu vía, người cứng vía,...(13).
Một điểm khác biệt lớn giữa số 3 trong tín ngưỡng của người Hàn và người Việt - trong hệ thống gia thần của người Hàn còn có tam thần bà (samsin halmeoni). Đó là 3 bà mụ quản lý 3 giai đoạn mang thai, sinh đẻ và nuôi con. Tam thần bà được thờ dưới dạng một tờ giấy gấp lại hay những cọng rơm sạch treo trên góc nhà. Tín ngưỡng tam thần trực tiếp thẩm thấu vào Phật giáo ở Hàn Quốc. Hiện nay nó đã biến đổi nhiều, nhưng trong thời Triều Tiên, thời mà tư tưởng trọng nam khinh nữ rất mạnh mẽ, nơi mà phụ nữ thường tìm đến, nhất là tam tinh các (hoặc tam thần các) trong các chùa chiền. Tam tinh các vốn là sự kết hợp giữa tín ngưỡng bản địa và tôn giáo ngoại lai là Phật giáo. Như vậy, số 3 đã bám rễ vào một nửa đời sống dân tộc Hàn, từ sự ra đời của sự sống ban đầu cho đến quá trình du nhập Phật giáo (14).
Trong gia đình người Hàn và người Việt, ngoài thờ tổ tiên còn thờ thổ công. Thổ công - một dạng của mẹ đất, là vị thần trông coi gia cư, ngăn chặn tà thần, định đoạt phúc họa cho một gia đình (15). Tuy nhiên, thổ công của người Hàn không phải là một hình tượng bộ ba như người Việt. Ngoài ra, ở người Việt còn có câu chuyện mẫu Liễu Hạnh - người con gái quê ở Vân Cát (Vụ Bản, Nam Định). Tương truyền, bà là công chúa con trời, 3 lần từ bỏ cuộc sống đầy đủ trên thiên đàng, xin xuống trần gian để sống một cuộc đời bình dị với khát vọng tự do, hạnh phúc. Thành ngữ Việt có câu tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ. Đền miếu, phủ thờ mẫu Liễu Hạnh mọc lên khắp nơi: phủ Giầy (Nam Định), phủ Tây Hồ (Hà Nội), đền Sòng và đền Phố Cát (Thanh Hóa),... Ngoài hệ thống tứ bất tử, bà còn được bổ sung vào hệ thống tam phủ để thành tứ phủ và được thờ riêng trong tín ngưỡng tam tòa thánh mẫu (16). Tất cả những điều đã nêu ở trên về thần tích Mẫu Liễu đều liên quan đến số 3.
Một điểm khác biệt giữa người Hàn và người Việt - trong tín ngưỡng dân gian người Hàn sẽ chuẩn bị 3 đấu gạo, 3 chén gạo và 1 nắm gạo. Người Hàn còn tránh kết hôn vào tuổi 29, do có số 9 ẩn chứa cách tính hạn mà người Hàn gọi là tam tai - năm cuối cùng số 3 lặp lại. Mặt khác, khi làm điều gì đó sai trái, người Hàn thường nói tránh bằng từ tam thập lục giới. Theo quan niệm của người Hàn, số 3 được nhân lên 12 lần còn nhấn mạnh đến tốc độ, số 12 ở đây có nghĩa là cực nhiều, sự lặp lại đó nhằm đem lại hạnh phúc cho con người.
Khác với người Hàn, tuy người Việt coi số 3 là con số linh thiêng, nhưng mặt khác nó còn là số xui xẻo chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba. Còn ở người Hàn số 3 là dương số và là số lành (may mắn). Theo họ, ngày mùng 3-3 là ngày lành tháng tốt. Bởi vì, vào ngày này băng tuyết đóng trong lòng đất bắt đầu tan chảy, cây cối bên dòng suối vươn mình và đâm chồi nảy lộc. Đặc điểm này hoàn toàn giống với tết Trùng cửu của người Hán diễn ra vào ngày mùng 9-9 cũng chính là kết quả của việc lặp lại số 3. Người Hán cũng tin rằng, vào ngày này dương khí ngập tràn muôn nơi, nên vạn vật đều được tiếp thêm sức sống.
Giống như sự tương đồng trong nhiều lĩnh vực và yếu tố khác, số 3 đóng một vai trò khá quan trọng trong đời sống của người Hàn và người Việt. Do đó, điểm tương đồng lớn nhất trong quan niệm về con số này đều chỉ sự hoàn hảo, tối cao và linh thiêng. Điểm khác biệt trong quan niệm của hai dân tộc về số 3 lại liên quan tới điều kiện môi sinh của hai nước. Tuy nhiên, những điểm tương đồng trong văn hóa Việt - Hàn nói chung, quan niệm về số 3 nói riêng sẽ giúp cho hai dân tộc có điều kiện thuận lợi trong việc xích lại gần nhau, hợp tác hữu nghị cùng phát triển. Những điểm khác biệt cũng sẽ tăng thêm sự phong phú, đa dạng trong văn hóa của mỗi dân tộc và toàn khu vực.
_______________
1, 5, 6, 7, 8, 9, 11, 12. Joo Kang Hyun, Văn hóa Hàn Quốc - những bí ẩn, Nxb Hankire, Seoul (chữ Hàn), Người dịch: Ths Thân Thị Thúy Hiền, giảng viên khoa Đông phương học, Trường Đại học Đà Lạt.
2. Goot (tín ngưỡng dân gian) được cử hành bởi cộng đồng làng tại Đô đường.
3. Một loại rượu đục có nồng độ cồn thấp.
4. Tam vị nhất thể (tức chúa trời ba ngôi gồm cha, con và thánh linh).
10. Một nhân vật trong truyền thuyết Đông minh vương khai quốc - câu chuyện về Ju Mong, người lập quốc Cao Câu Ly.
13, 16. Theo lời TSKH Trần Ngọc Thêm, Khoa Văn hóa học, Trường Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia TP.HCM.
15. Theo truyện cổ tích của người Việt, ngày xưa có hai vợ chồng sống không hòa thuận, vợ bỏ nhà ra đi và lấy một người chồng khá giả. Một hôm có người ăn xin vào nhà; khi mang gạo ra cho, người vợ nhận ra đó là người chồng cũ của mình. Gần trưa, sợ chồng mới về hiểu lầm, người vợ bảo người chồng cũ ra đống rơm núp tạm. Chồng mới về vào bếp lấy tro bón ruộng không có, bèn ra đốt đống rơm. Thấy chồng cũ chết trong đống rơm, thương xót quá, người vợ bèn nhảy vào lửa cùng chết. Chồng mới thấy vậy, tuy không hiểu đầu đuôi, nhưng vì thương vợ nên cũng nhảy vào lửa cùng chết nốt. Trời thấy ba người sống đầy tình nghĩa bèn phong cho cả ba cùng làm vua bếp.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 325, tháng 7-2011