Dẫn nhập
Trong hệ giá trị văn hóa truyền thống của Trung Quốc, Nho gia là mạch chính thống, tồn tại với dân tộc hơn hai ngàn năm và thẩm thấu trong huyết quản dân tộc, góp phần quan trọng định hướng chuẩn mực giá trị dân tộc Trung Hoa. Thời Phong kiến khép lại theo bánh xe lịch sử, trong giai đoạn tranh tối tranh sáng chuyển mình của xã hội để bước sang thời đại mới, riêng ở mảng nhìn lại giá trị truyền thống, Nho gia trở thành đối tượng “đánh giá lại” trong trào lưu tìm hiểu nguyên nhân gây nên tình trạng xã hội nhiễu loạn, tình trạng con người sa sút đương thời. Trong giai đoạn đó, có nhiều quan điểm trái chiều, khai thác hầu như đầy đủ hai mặt ảnh hưởng tích cực và hạn chế của lý luận tư tưởng Nho gia. Từ sau năm 1949 đến nay, xã hội Trung Quốc bước qua giai đoạn hiện đại, với chế độ xã hội mới, với bối cảnh quan hệ với thế giới khác hoàn toàn, theo chiều hướng mở rộng tối đa, với nhu cầu kinh tế, vật chất, kỹ thuật cao, với nhu cầu đào tạo con người đáp ứng tình hình mới, kéo theo đó là sự chuyển đổi trong hệ giá trị truyền thống. Hệ giá trị truyền thống, trong đó mạch chính là ý thức hệ Nho gia, đứng trước nguy cơ khủng hoảng. Trước sự thay đổi toàn diện của bối cảnh xã hội, trước sự thách thức của thời đại, quan điểm và ứng xử của người đương thời đối với giá trị truyền thống là vấn đề luôn không ngừng được đặt ra.
Trong bài viết này, chúng tôi bước đầu trình bày quan điểm, lối ứng xử của người Trung Quốc đương thời đối với giá trị truyền thống thông qua những bài nghiên cứu về Nho học của các học giả Trung Quốc.
1. Thái độ của người Trung Quốc cận hiện đại đối với giá trị truyền thống
Trung Quốc bước qua giai đoạn lịch sử cận đại năm 1840 được đánh dấu bằng sự kiện chiến tranh Nha phiến lần nhất và bước qua giai đoạn lịch sử hiện đại năm 1949 bằng sự kiện thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Giai đoạn cận đại, bối cảnh Trung Quốc đối diện với chính trị quân sự rối ren, các cuộc chiến hỗn loạn, tư tưởng tinh thần dân tộc chao đảo. Giai đoạn hiện đại khép lại tình hình bất ổn thời cận đại, mở ra một giai đoạn xây dựng mới. Tình hình chung từ thời cận đại đến nay là văn hóa phương Tây xâm nhập Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ. Trong bối cảnh chế độ chính trị mới, phương thức kinh tế mới, lối sống con người mới, một số giá trị mới (hệ tư tưởng, lối sống và văn minh kỹ thuật phương Tây) xuất hiện, v.v., hệ giá trị truyền thống Trung Quốc tồn tại như thế nào, vai trò định hướng phát triển dân tộc ở mức độ nào? Điều đó phụ thuộc không nhỏ vào nhận thức, thái độ và kinh nghiệm của người Trung Quốc đương thời về giữ gìn giá trị truyền thống của dân tộc họ, cụ thể là Nho học.
Thái độ “đánh giá lại” Nho học thời cận đại, điển hình là phong trào Ngũ Tứ. Trước bức bách của sự kiện dân tộc, phong trào Ngũ Tứ diễn ra bắt đầu từ ngày 4 tháng 5 năm 1919. Tạm thời chưa đề cập đến tư tưởng, chính trị, xã hội; về tư tưởng văn hóa, trong phong trào Ngũ tứ, một số nhân sĩ phản đối tư tưởng đạo đức truyền thống, phát động phong trào “tân văn hóa”, nêu khẩu hiệu “đả Khổng gia điếm” 打孔家店, “suy đảo trinh tiết bài phường” 推倒贞节牌坊, với ý lật đổ Khổng gia, lật đổ một số ý thức hệ phong kiến như trinh tiết. Về hình thái ý thức, đây được xem là một cách mạng tư tưởng.
Bên cạnh đó, thái độ đề cao Nho học, phục hưng văn hóa dân tộc lan tỏa và thành cao trào, đã dẫn dắt bước đường “tự chuyển mình” của Nho học thích ứng với thời đại. Thập niên 30, 40 thế kỷ XX, trường phái “Tân Nho học” (còn gọi “tân Nho học hiện đại”) ra đời, là kết quả của cao trào ý thức, thái độ đó, chuyển ý thức thành hành động “xây dựng hiện đại” Nho học, làm cho hệ triết học này tiếp tục được xây dựng kết cấu mới. Đại biểu của trường phái này là Hùng Thập Lực, Lương Thấu Minh, Mã Nhất Phù, Phùng Hữu Lan, Hạ Lân. Hạ Lân cho rằng: “thời đại đương thời của Trung Quốc là thời đại phục hưng dân tộc, không chỉ là dành thắng lợi trong kháng chiến, mà bản chất phục hưng dân tộc phải là phục hưng văn hóa dân tộc. Phục hưng văn hóa dân tộc, trào lưu chủ yếu, thành phần cơ bản là phục hưng tư tưởng Nho gia, phục hưng văn hóa Nho gia. Vận mệnh tư tưởng Nho gia và vận mệnh tiền đồ của dân tộc là không thể tách rời” [dẫn theo Trần Lai 2013]. Trước “tân Nho gia”, việc đề cao Nho học thời cận đại được chú ý bởi một số nhân vật quan trọng như Lương Khải Siêu, Tôn Trung Sơn. Tôn Trung Sơn là nhà cách mạng dân chủ Trung Quốc, điều đáng nói là theo Kitô giáo, nhưng ông đóng góp lớn cho sự phát triển Nho gia đương thời. Có giai thoại rằng, Mã Lâm (đại biểu Quốc tế Cộng sản) hỏi Tôn Trung Sơn: “Tư tưởng cách mạng của ông, cơ sở là gì?”. Tôn Trung Sơn trả lời: “Trung Quốc có đạo thống, Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Võ, Chu Công, Khổng Tử nối tiếp liên tục, cơ sở tư tưởng của tôi chính là đạo thống này, cách mạng của tôi chính là kế thừa tư tưởng chính thống này mà phát dương quang đại” [dẫn theo Trịnh Khởi Đông 2005].
Thời hiện đại, xu hướng chiếm ưu thế là khẳng định sự tồn tại của Nho học, khẳng định giá trị của Nho học đối với sự phát triển của thời đại. Tuy thời hiện đại Nho gia không tiếp tục xuất hiện chi phái lý luận và nhà Nho nữa, nhưng Nho học được khẳng định là vẫn tồn tại. Giá trị của Nho học được tồn tại trước hết trong kết cấu tâm lý văn hóa người Trung Quốc, trong quan niệm luân lý dân gian, trong nội tâm của dân chúng. Trần Lai cho rằng: “Sự tồn tại của Nho học không đồng nhất với sự tồn tại của nhà triết học Nho gia hay hệ triết học Nho gia. Nho học tồn tại trong bá tánh, bá tánh hằng ngày dùng mà không biết” [Trần Lai 2013]. Ngoài ra, qua hoạt động học thuật thực tiễn đã và đang diễn ra, công việc nghiên cứu Nho học truyền thống liên tục không gián đoạn. Bao gồm một số nghiên cứu cụ thể như: lý luận tư tưởng của Nho học truyền thống và tân Nho học thời cận đại, lịch sử phát triển của Nho học, chú giải, dịch nghĩa mới kinh điển Nho gia, kết cấu nghĩa lý của hệ luân lý Nho học, giải thích rõ ý nghĩa và nguồn gốc các thuật ngữ trong lý luận Nho học, v.v.. Nhìn chung, điều kiện của đương đại không còn phù hợp cho sự xuất hiện trường phái và nhà Nho, thay vào đó là hoạt động học thuật về Nho học diễn ra sôi nổi dưới nhiều hình thức công bố như sách, báo, tạp chí khoa học, diễn đàn, website, v.v.; các trường đại học lớn như đại học Bắc Kinh, Thanh Hoa lần lượt thành lập bộ phận nghiên cứu Quốc học.
Không dừng lại ở khẳng định sự tồn tại của Nho học, mà thực tiễn hơn là khẳng định giá trị của Nho học hay ý nghĩa tích cực của Nho học trong thời đại mới, thể hiện qua hàng loạt các bài viết, công trình với nội dung Nho học gắn với thời đại như: Nho học và dân chủ, nhân quyền, kinh tế, toàn cầu hóa, hiện đại hóa, xung đột văn minh, xây dựng xã hội hài hòa; các nghiên cứu về giá trị hiện đại của tư tưởng Nho gia ở nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, giáo dục, hiện đại hóa,... cũng vô cùng phong phú. Xin kể tên một số công trình như: Văn hóa lễ Nho gia và tiếng vọng đến hiện đại của nó của Dương Chí Cương, Ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia đối với Trung Quốc và thế giới của Ngô Tinh Thần, Tân Nho học hiện đại và hiện đại hóa Trung Quốc của Phương Khắc Lập, Nho học và Trung Quốc thế kỷ 21 của Lý Chí Hòa, Bàn về ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia đối với văn hóa xí nghiệp hiện đại của Lê Mẫn, Tư tưởng Nho gia và xã hội hiện đại của Từ Phục Quan, Xã hội hiện đại và tư tưởng Nho gia của Lý Anh Xán, v.v.. Bên cạnh việc khẳng định giá trị, các tác phẩm còn phân tích phương hướng phát triển của Nho học, phương thức để Nho học phát huy tác dụng. Trần Lai đặt vấn đề Sau tân Nho gia, Nho học sẽ như thế nào; Đỗ Duy Minh khẳng định Trung Quốc đương đại cần Nho học tự đổi mới, ông mạnh dạn cho rằng bước phát triển đầu tiên của Nho học là từ vùng văn hóa Khúc Phụ phát triển trở thành hạt nhân của văn minh Trung Nguyên, dòng chính của văn hóa Trung Quốc, bước thứ hai phát triển ra cả Đông Á và bước thứ ba phát triển ra toàn thế giới; Gia Nhuận Quốc phân tích sự thay đổi lớn của Nho Gia qua Sự thay đổi mang tính cách mạng của truyền thống văn hóa Nho gia Trung Quốc thời hiện đại. Những bài viết phân tích tác dụng của Nho gia trong từng lĩnh vực cũng phong phú. Soái Kiện Hoa qua Quan điểm thành nhân Nho gia và nghiên cứu giá trị quản lý nhân bản hiện đại, nghiên cứu lý luận quản lý nhân bản hiện đại, so sánh với quan điểm thành nhân của Nho gia, tìm chỗ tương hợp và tìm giá trị trong quan điểm thành nhân bổ khuyết lý luận hiện đại. Một nội dung được quan tâm không kém khác, đó là so sánh văn hóa Trung – Tây, trong đó Nho học là nòng cốt của văn hóa Trung Quốc.
Ngoài ra còn có xu hướng đề cao tuyệt đối Nho học, đặt vấn đề Nho hóa Trung Quốc, thậm chí lấy Nho học thay thế vị trí của chủ nghĩa Marx. Bài viết Bàn về “Nho hóa Trung Quốc” luận của Khưu Đào nêu những chủ trương của “Nho hóa Trung Quốc” và bình luận tính khả thi của những chủ trương này; bài viết Nghiên cứu vấn đề Nho hóa chủ nghĩa Marx của Lý Mộng Hà nói về tính tất yếu của Trung Quốc hóa chủ nghĩa Marx và tìm điểm tương thông giữa Nho học và chủ nghĩa Marx.
Bên cạnh đó cũng có không ít bài viết phân tích hạn chế của Nho gia. Bài viết Bàn về chuyển hóa truyền thống giá trị Trung Quốc và xây dựng lại hệ giá trị của Cao Đức Bộ viết về mặt trái của giá trị truyền thống Trung Quốc đăng trên học báo Đại học nhân dân Trung Quốc. Ông cho rằng trong lịch sử Trung Quốc hàng ngàn năm đã trải qua ba lần thay đổi giá trị lớn, hay gọi là ba lần “cách mạng” giá trị: lần thứ nhất từ thời viễn cổ đến cuối thời Thương đầu thời Chu; lần thứ hai từ cuối Xuân Thu đến đầu Chiến Quốc; lần thứ ba từ giữa đời Đường đến Lưỡng Tống. Qua ba lần đó, hạt nhân của giá trị truyền thống Trung Quốc được chuyển đổi từ “thần trị”神治, “võ trị” 武治đến “nhân trị” 人治, từ “nhân trị” 人治 với 人 là ‘người’ đến “nhân trị” 仁治 với 仁 là ‘lòng nhân’, và sau cùng chuyển từ “nhân tính” 仁性đến “lý tính”理性.
Qua đó, nội dung chủ yếu của giá trị truyền thống Trung Quốc được khái quát thành ba phương diện: thứ nhất, giá trị hạt nhân “dĩ nhân vi bản”; thứ hai, giá trị quan và phương pháp luận “trung dung hài hòa”; thứ ba, quan điểm lịch sử và giá trị sống “tự cường bất tức”. Truyền thống giá trị đó tồn tại nhiều nhược điểm. Đặc điểm của truyền thống nhân văn là “dĩ nhân vi bản, văn chất tương cầu”, nhưng thực tế lịch sử thì luôn nhấn mạnh “văn”, coi nhẹ “chất”, thậm chí đi đến mức “thuần túy văn”, có nghĩa là “nhân văn”人文, rồi cuối cùng chỉ còn “văn” mà mất yếu tố “nhân”人. Luân lý đạo đức Trung Quốc bắt đầu từ truyền thống tông pháp, mối quan hệ luân thường dần được nâng lên đến “thiên lý”. Lễ giáo và thiên lý tương thông, trở thành “cương thường” dưới sự thống trị của thiên lý. Đến một lúc nào đó, chẳng những không còn giá trị mà còn áp chế nhân tính, dẫn đến vô số bi kịch xã hội, trở thành “lễ giáo ăn thịt người”. Lý tính trong truyền thống Trung Quốc thiên về tính lý, tình lý, sự lý, nhưng không đủ “vật lý”. Trọng “đạo” khinh “khí”, không đạt đến tầng “hình nhi thượng” của lý tính phương Tây. Lý học đề xuất đạo “thiên nhân hợp nhất”, như vậy không thể phân rõ “chủ - khách”, cũng không thể thực hiện sự đột phá của hình nhi thượng. “Cách vật chí tri” của Chu Hy có thể nói là nghiên cứu sâu về vật lý, tuy nhiên đến Dương Vương Minh thì bỏ đi. Cuối cùng, trung dung, trung đạo là giá trị cũng là công cụ, nhấn mạnh thay đổi xã hội mang tính ôn hòa trung tính mà không chủ trương cách mạng. Giá trị và công cụ này chỉ có hiệu quả khi giải quyết những tệ nạn xã hội thông thường, chứ không thể giải quyết mâu thuẫn xung đột lớn. Khái quát những phân tích trên của Cao Đức Bộ cho thấy đã đi vào nhược điểm trong bản chất của Nho gia.
2. Phương hướng phát triển để giá trị truyền thống tiếp tục “sống” trong thời đại mới
Với nhận thức và thái độ của người Trung Quốc đương đại như phân tích trên, cho thấy họ luôn khẳng định sự tồn tại, vai trò của Nho học và đề cao giá trị truyền thống trong thời đại mới. Sự khẳng định đó đương nhiên không dừng lại ở lý thuyết, ở ý chí, để giá trị truyền thống tiếp tục “sống” trong thời đại mới phải có phương hướng vận động thực tiễn.
Chủ trương phổ biến là: lấy giá trị Trung Quốc truyền thống làm nền tảng, tiếp thu giá trị mới từ bên ngoài và dung hợp cả hai. Thời cận đại, Tân Nho học hiện đại đã lấy Nho gia làm gốc, giữ gìn văn hóa truyền thống, hấp thu lý học phương Tây, dung hợp văn hóa Trung - Tây để hiện đại hóa Trung Quốc. Sau phong trào Ngũ tứ, Trung Quốc xuất hiện ba trào lưu tư tưởng văn hóa chính, đó là tân Nho học hiện đại, chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa thực chứng. Gia Nhuận Quốc cho rằng cả ba trào lưu tư tưởng này đều là sản phẩm của việc kế thừa văn hóa truyền thống (chủ yếu là Nho gia), hay lấy văn hóa truyền thống làm cơ sở và hấp thu yếu tố ngoại sinh. Lý học Tống Minh tồn tại bên trong ba chi phái khác nhau là lý học, tâm học và khí học. Ba chi phái này cũng có những tranh luận quan điểm nhất định giữa “tâm – lý – khí”. Trong đó, lý học được triều đình đề cao, tâm học và khí học thì bị thế lực thống trị đàn áp, đặc biệt khí học chỉ lưu truyền dưới hình thức dân gian, không có chỗ đứng thành một chi phái, một chủ nghĩa để thể hiện lập trường quan điểm. Chính tâm học với chủ trương trọng giải phóng tư tưởng và khí học chủ trương thực sự cầu thị đã ảnh hưởng mạnh đến trào lưu tư tưởng cải lương giai cấp tư sản và cũng trở thành nền móng văn hóa dân tộc để chủ nghĩa Marx có thể truyền bá và phát triển ở Trung Quốc. Chủ nghĩa thực chứng Trung Quốc là sản phẩm của kế thừa nền tảng truyền thống khảo cứ học 考据学 đời Thanh và hấp thu chủ nghĩa thực chứng phương Tây. Gia Nhuận Quốc cho rằng khảo cứ học chính là khí học (chất duy vật của Nho gia). Trong khi chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa thực chứng Trung Quốc xây dựng trên nền móng khí học của Nho gia, thì tân Nho học hiện đại xây dựng trên nền móng lý học và hấp thu Phật học và Tây học.
Nho học trong suốt quá trình tồn tại và trở thành mạch chính trong hệ giá trị truyền thống Trung Quốc, đã luôn luôn tự hoàn thiện, tự thay đổi để thích ứng với từng hoàn cảnh đương thời. Tiếp tục tiến trình lịch sử của Nho học, thời cận hiện đại cũng chủ trương Nho học phải tự điều chỉnh, tự đổi mới. Với phương hướng “tự đổi mới”, biện pháp cụ thể có nhiều, chủ yếu có thể khái quát thành hai cách lớn. Một là, khai thác hay sử dụng những lý luận, tư tưởng trong Nho học truyền thống có thể bổ khuyết cho đương thời, phát huy tác dụng đáp ứng yêu cầu của thời đại, những yếu tố nào không thích hợp thì không đề cập đến. Thời đại nào trong phát triển đương thời cũng có chỗ bất cập, người ta tìm trong số những cái truyền thống có thể bổ khuyết chỗ bất cập của thời đại. Hai là, Nho học tự đổi mới bằng cách mở rộng, thu hẹp, hoặc thêm nghĩa mới cho các lý luận, khái niệm.
Khang Hữu Vi sáng lập “tân công dương học”, tuyên truyền tiến hóa luận và theo phương thức của Nho gia đề xuất lý tưởng xã hội “đại đồng”. Lương Khải Siêu đề ra thuyết “tân dân”, điều chỉnh thuyết tu dưỡng của Nho gia, đề xuất lý tưởng nhân cách của giai cấp tư sản. Đàm Tự sáng lập “tân nhân học”, khai triển chữ “nhân” của Nho gia cổ đại thành bản nguyên vũ trụ, xây dựng thế giới quan kiểu Nho gia “nhân học” 仁学. Trịnh Khởi Đông cho rằng, Tôn Trung Sơn phát triển tư tưởng chính trị của Nho gia chính là ở “chủ nghĩa dân tộc”, qua sự điều chỉnh của Tôn Trung Sơn, chủ nghĩa dân tộc của Nho gia phát triển từ chủ nghĩa dân tộc cổ đại đến chủ nghĩa dân tộc hiện đại và chủ nghĩa quốc tế; phát triển luân lý đạo đức của Nho gia ở chỗ giải thích mới các khái niệm “trung” những khía cạnh có ý nghĩa đối với thời cận đại cho đến hiện đại của Trung Quốc (nội hàm của từ “trung” được giải thích mới là trung với nước, với dân tộc thay cho “trung quân” thời cổ đại); làm cho tư tưởng Nho gia từ triết học cổ đại trở thành triết học hiện đại ở chỗ đề ra thuyết “tri nan hành dị” thay cho thuyết “tri hành hợp nhất” của Vương Dương Minh. Về khái niệm, nghĩa của “tri” mở rộng từ “nhận thức của cá nhân” thành “nhận thức phổ biến”. Về lập luận, khu biệt “tri” và “hành”, tức lý luận và thực tiễn, nhấn mạnh tác dụng chỉ đạo của thực tiễn, khuyến khích mạnh dạn đi vào thực tiễn.
Kết luận
Xã hội phong kiến Trung Quốc cáo chung, người thời cận hiện đại ứng xử với những giá trị được cho là thuộc về ý thức hệ phong kiến như thế nào, là vấn đề lớn luôn không ngừng được đặt ra, trong đó, ý thức hệ Nho gia là thành tố hàng đầu. Trong số những nghiên cứu, phân tích, bình luận, có chỗ phê phán, có chỗ ca ngợi, nhưng nhìn chung, xu hướng chính là khẳng định sự tồn tại và ý nghĩa tích cực của Nho gia trong thời đại mới, bởi nó là hệ giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Trung Hoa. Trên con đường phát triển của xã hội, của nhân loại, văn hóa với hệ giá trị của nó luôn giữ chức năng giúp xã hội phát triển bền vững, cân bằng trước những chao đảo tất yếu của đương thời. Cách ứng xử đó của người Trung Quốc đối với giá trị truyền thống là kinh nghiệm khôn ngoan rút ra từ lịch sử phát triển đất nước. Song song với thái độ giữ gìn đó, cách giữ gìn để giá trị truyền thống “sống” trong thời đại mới cũng là kinh nghiệm của người Trung Quốc đã và đang trải nghiệm. Mục đích cuối cùng của việc giữ “sự sống” cho giá trị truyền thống là định hướng phát triển liên tục, bền vững, bổ khuyết cho đương thời.
Ngày nay, với sự khiêu chiến của sức mạnh “đồng tiền”, những hành động “bất nhân” gây hậu quả nghiêm trọng đến không chỉ riêng người trong nước (như đưa chất gây hại vào trong thực phẩm, sữa, đồ chơi trẻ em,...), lại xuất phát từ một đất nước với truyền thống “dĩ nhân vi bản”, với truyền thống giáo dục về “trách nhiệm đối với xã hội”. Hơn ai hết, người Trung Quốc nhận thấy nội hàm của những giá trị truyền thống cần được thay đổi, mà cái cần thay đổi trước nhất là thay đổi thế phát ngôn, những luân lý đó đi vào nhận thức của toàn xã hội thay vì ẩn hiện sự đối lập giữa “quân tử - tiểu nhân”.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1. Cao Đức Bộ 2014: Bàn về chuyển hóa truyền thống giá trị Trung Quốc và xây dựng lại hệ giá trị, Học báo ĐH Nhân dân Trung Quốc, số 3-2014, tr.122-131 [高德步 “论中国价值传统的转化与价值体系的重建”, 中国人民大学学报, 2014年第 3期, 122-131] http://xsqks.ruc.edu.cn/Jweb_rdxb/CN/article/searchArticle.do#]
2. Đỗ Duy Minh 2014: Trung Quốc đương đại cần Nho học tự đổi mới [杜维明 “当代中国需要自我更新的儒学”]. http://theory.people.com.cn/n/2014/0318/c40531-24667092.html
3. Gia Nhuận Quốc 1999: Sự thay đổi mang tính cách mạng của truyền thống văn hóa Nho gia Trung Quốc thời hiện đại, in trong: Trung Quốc Nho giáo sử thoại, NXB ĐH Hà Bắc [加润国, “中国儒家文化传统在现代的革命性变革”, “中国儒教史话”,河北大学出版社1999年] http://www.confucius2000.com/confucius/zgrjwhctzxddgmxbg.htm
4. Khúc Thần 2006: Triết học Trung Quốc và văn hóa Trung Hoa, NXB Nhân dân Ninh Hạ [曲辰 2006, “中国哲学与中华文化”, 宁夏人民出版社]
5. Khưu Đào 2006: Bàn về “Nho hóa Trung Quốc” luận [邱涛 “评“儒化中国”论” 2006] http://www.globalview.cn/ReadNews.asp?NewsID=8535]
6. Lý Dĩnh Khoa 1991: Nho gia và người Trung Quốc, NXB Thủy Ngưu [李颖科民81, “儒家与中国人”, 水牛出版社]
7. Lý Mộng Hà 2014: Nghiên cứu vấn đề Nho hóa chủ nghĩa Marx [李梦霞 “马克思主义的儒化问题研究”]. http://www.lunwendata.com/thesis/2014/25271.html
8. Soái Kiện Hoa 2009: Quan điểm thành nhân Nho gia và nghiên cứu giá trị quản lý nhân bản hiện đại, NXB ĐH Tương Đàm [帅建华2009, “儒家成人观及其现代人本管理价值研究” 湘潭大学出版社]
9. Trần Lai 2013: Sau tân Nho gia, Nho học sẽ như thế nào, Nhật báo nhân dân [陈来 “新儒家之后, 儒学何为”, 人民日报] http://opinion.people.com.cn/n/2013/1222/c1003-23909423.html
10. Trịnh Khởi Đông 2005: Tôn Trung Sơn đối với việc kế thừa và phát triển tư tưởng Nho gia [郑起东 “孙中山先生对于儒家思想的继承和发展”]. http://jds.cass.cn/item/1413.aspx
Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”