Nói cho chính xác hơn, nguyên nhân dẫn đến không kết hôn không phải là do ý thức của con người thay đổi, mà là quan niệm xã hội đã được mềm dẻo hóa. Như vậy, người Nhật Bản đã có một cái nhìn mới về hôn nhân. Kết hôn không còn là chuyện đương nhiên như trước đây, nó chỉ đơn giản là một sự lựa chọn trong nhiều sự lựa chọn khác nhau. Lối suy nghĩ “đã là con người thì ai cũng phải kết hôn” đã trở thành lạc hậu. Kết hôn hay không? không còn là vấn đề quan trọng nữa. Sinh con cũng vậy, trong thời kì nền kinh tế phát triển cao độ, mỗi gia đình Nhật Bản đều sinh 2 đến 3 con. Nhưng hiện nay sinh cũng được, không sinh cũng không bị xã hội phê phán, không bị gia đình, họ hàng và những người xung quanh thúc giục. Trong bối cảnh con người không còn bị trói buộc trong các quan niệm về hôn nhân thì những người nghĩ rằng kết hôn không có nhiều điểm tốt, hay kết hôn thì nhất định phải sinh con, hoặc sinh con thì nhất định phải kết hôn… Chính vì thế, số người duy trì lối sống độc thân, không kết hôn ngày càng tăng. Vậy tại sao người Nhật lại chọn cuộc sống có vè cô độc như vậy? Trung tâm nghiên cứu JGSS Đại học thương nghiệp Osaka đã tiến hành khảo sát quan điểm của mọi người về “Hạnh phúc trong hôn nhân”. Theo kết quả của cuộc điều tra này, có đến 40% số người trả lời không đồng ý với quan điểm “Chỉ có hôn nhân mới hạnh phúc”[1]. Như vậy, chưa xét đến vấn đề mang tính kinh tế thì những ưu thế về mặt tinh thần của kết hôn cũng đang mất đi.
Trong thế hệ Dankai sedai[2] đa số các gia đình đã duy trì sự phân chia vai trò theo giới, nghĩ là “Chồng ra ngoài làm việc, vợ chăm lo việc nhà”. Nam giới là trụ cột gia đình, có trách nhiệm kiếm tiền, nuôi sống vợ con và ngược lại, tuy không cần phải làm việc kiếm tiền nhưng nữ giới có trách nhiệm chăm lo việc nhà, con cái. Phần lớn nữ giới thời kì ấy đều nghỉ làm việc sau khi họ kết hôn hoặc sau khi sinh con. Cuộc đời của người phụ nữ sau khi kết hôn sẽ phụ thuộc tất cả vào người chồng. Tuy nhiên, từ thập niên 70, cùng với sự nâng cao của trình độ học vấn, phụ nữ bắt đầu tiến thân vào trong xã hội, thế hệ Dankai sedai cùng lúc nghỉ việc, trở thành những bà nội trợ thì giờ đây lại đồng loạt xin việc, tái gia nhập xã hội[3]. Xu hướng phụ nữ mặc dù kết hôn nhưng không phụ thuộc hoàn toàn kinh tế vào chồng đã tăng lên. Sự tự lập về kinh tế và nâng cao địa vị xã hội đã giúp người phụ nữ đã thoát khỏi tình trạng “Không kết hôn sẽ không thể tồn tại”.
Mặt khác, từ khi nền kinh tế bong bóng sụp đổ, để tiết kiệm chi phí nhân sự, các doanh nghiệp đã đẩy mạnh tuyển dụng theo hình thức phi chính thức. Theo đó, tỷ lệ lao động phi chính thức tăng lên một cách nhanh chóng. Hơn nữa, trình độ học vấn ngày càng nâng cao giúp cho mức lương của nữ giới ngày tăng lên nhiều so với trước đây nên khoảng cách giữa nam giới và nữ giới về mặt thu nhập ngày càng được rút ngắn. Trong tâm lý của người phụ nữ, họ không hẳn muốn dựa dẫm, phụ thuộc vào chồng, nhưng ai cũng muốn lựa chọn cho mình một người đàn ông có thể trông cậy. Thế nhưng, hiện nay, số lượng nhân viên phi chính thức ngày càng tăng đã khiến cho kì vọng này của nữ giới khó có thể thực hiện. Không chỉ có thế, do suy thoái kinh tế, nhiều gia đình mà chỉ người chồng làm việc sẽ không đủ gánh vác kinh tế gia đình, buộc cả người vợ cũng phải ra ngoài làm việc, kiếm tiền. Mặc dù Nhật Bản đang chuyển từ gia đình theo mô hình phân công vai trò theo giới, sang gia đình mà vợ và chồng đều làm việc. Nhưng nói đến việc nhà và chăm sóc con cái vẫn chủ yếu do người vợ đảm nhiệm. Vừa phải đi làm kiếm tiền, lại vừa phải chăm lo việc nhà và con cái đã tạo cho phụ nữ nhiều áp lực. Vì vậy, đối với phụ nữ ưu điểm của hôn nhân đã không còn như trước.
Giống với nữ giới, quan điểm của nam giới đối với hôn nhân cũng đang thay đổi. Nếu như không kết hôn giúp người phụ nữ thoát khỏi áp lực về mặt kinh tế khi phải phụ thuộc vào người chồng như trước đây, thì đối với nam giới, đó là sự giải thoát khỏi trách nhiệm đối với gia đình. Trước kia, để nối dõi tông đường,duy trì dòng giống, nam giới bắt buộc phải sinh con trai. Nếu như trong xã hội Nhật Bản thời cận đại, đã có không ít nam giới lấy nhiều thê thiếp để hoàn thành trách nhiệm này. Thì giờ đây, quan điểm đối với hôn nhân đang thay đổi kéo theo quan niệm đối với gia đình của người Nhật cũng thay đổi. Ngay cả kết hôn cũng không còn cần thiết thì ý nghĩa của việc sinh con trai cũng không còn quan trọng như trước kia nữa. Trong xã hội hiện đại, khi mà người ta đề cao ý muốn cá nhân, thì đối với nam giới, ưu thế của kết hôn cũng không còn nữa.
Với những lý do trên, quan điểm về hôn nhân đang thay đổi cả với nam giới và nữ giới. Cùng với sự nâng cao trình độ học vấn địa vị xã hội, nữ giới dần độc lập về kinh tế, họ “không cần kết hôn mà vẫn có là thể tồn tại”. Với nam giới, trách nhiệm duy trì gia đình dòng giống chỉ còn trong quá khứ nên tính ưu việt duy nhất mà kết hôn mang lại cho họ là niềm vui. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, đối với quan điểm “Hạnh phúc chỉ có trong hôn nhân”, số người đồng ý ở cả nam và nữ đều đang giảm. Trái lại, dưới tác động của suy thoái kinh tế, hôn nhân với hàng loạt các vấn đề liên quan như việc nhà, chăm sóc con cái chẳng những không có nhiều ưu điểm mà lại là trướng ngại cho con người. Vì thế, trong xã hội Nhật Bản, khi mà ưu điểm của kết hôn đang ít hơn so với nhược điểm thì kết hôn sẽ trở nên không quá cần thiết. Hơn nữa, quy phạm xã hội trong hôn nhân đã dần dần mềm dẻo hóa, đi đến xu hướng tôn trọng sự tự do của các cá nhân hơn, có kết hôn hay không cũng đều được xã hội công nhận.
Những yếu tố tác động đến sự thay đổi quan niệm về hôn nhân ở Nhật Bản
1. Xã hội phát triển, quyền tự do cá nhân được tôn trọng
Từ trước đến nay, trên phương diện pháp luật, kết hôn là một vấn đề thuộc về cá nhân, không một quốc gia nào có thể quy định công dân của nước đó phải kết hôn hoặc không được kết hôn. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, con người luôn bị ràng buộc trong các chuẩn mực xã hội nhất định và kết hôn cũng là một tiêu chuẩn đã từng tồn tại trong xã hội Nhật Bản trước đây. Nhưng, hiện nay khi xã hội Nhật Bản phát triển, quyền tự do, dân chủ của mỗi một cá nhân được đề cao, thì việc kết hôn hay không là sự lựa chọn mang tính tự do cao cần được tôn trọng.
Theo kết quả của “Điều tra công luận về xã hội nam nữ bình quyền” năm 2009, đối với quan điểm “Kết hôn là vấn đề tự do mang tính cá nhân nên kết hôn hay không kết hôn là tùy thuộc vào ý muốn của từng người”, có đến 70% đồng ý cho rằng “Kết hôn là vấn đề tự do mang tính cá nhân”[4]. So với tỷ lệ 62,7% năm 1992 thì số người ủng hộ quan điểm này ngày càng tăng. Đặc biệt, theo điều tra năm 2009, có đến 90% thanh niên Nhật Bản trong độ tuổi 20, 30 đồng ý với quan điểm này. Thêm vào đó, theo “Báo cáo điều tra ý thức quốc tế về xã hội thiểu tử hóa năm 2010”, khi hỏi về sự cần thiết của kết hôn và sống thử, chỉ 8% người Nhật được hỏi cho rằng “Cần phải kết hôn”, tỷ lệ này giảm 3,5% so với điều tra năm 2005. Nếu tổng hợp 8% của quan điểm “Cần phải kết hôn” và 56,5% của quan điểm “Nên kết hôn”, nhiều người sẽ cho rằng số tỷ lệ số người có ý muốn kết hôn chiếm hơn một nửa, tuy nhiên thực tế lại không phải như vậy. Mặc dù có hơn 50% số người được hỏi tại Nhật cho rằng “nên kết hôn”, nhưng điều đó không có nghĩa là họ phản đối lối sống độc thân. Đó chỉ đơn thuần là một lời khuyên, nếu làm theo được thì tốt, còn không cũng không trở thành vấn đề lớn. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, quan điểm về kết hôn là vấn đề tự do cá nhân, và quan điểm này đang dần trở nên phổ biến trong xã hội Nhật Bản.
Như vậy, từ những dẫn chứng trên có thể khẳng định, quan điểm của người Nhật đối với hôn nhân đang thay đổi. Trước kia, rất nhiều người cho rằng kết hôn là một chuyện đương nhiên, là trách nhiệm cần phải làm. Nhưng hiện nay, kết hôn đang trở thành vấn đề tự do cá nhân. Nó đơn thuần chỉ là một sự lựa chọn trong nhiều lựa chọn khác nhau như sống thực hôn (không đăng ký kết hôn nhưng sống như một gia đình thật sự) hay sống thử, và hơn nữa là độc thân. Hiện nay, người Nhật không còn bị trói buộc trong các quan niệm truyền thống như “chưa kết hôn thì chưa được coi là trưởng thành” hay “kết hôn là chuyện đương nhiên”, họ có thể tự do lựa chọn lối sống riêng cho mình, hoặc kết hôn hoặc không. Vì thế, không mấy khó hiểu khi có nhiều người lựa chọn lối sống độc thân, không kết hôn.
2. Sự phản ứng đối với phân chia vai trò theo giới
Khuynh hướng kết hôn muộn và không kết hôn được cho là thái độ phản ứng đối với sự phân chia vai trò theo giới trong gia đình ở Nhật Bản. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản dần được phục hồi và bước vào thời kì tăng trưởng cao, thời kỳ này độ kéo dài hơn 20 năm. Đây cũng chính là thời kì mà dân số Nhật Bản tương đối ổn định. Bộ phim hoạt hình “Bé Chibi Maruko” được sản xuất năm vào thập niên 90 của thế kỉ 20 đã thu hút đông đảo người xem. Một trong những lý do dẫn đến sự thành công đó là do bộ phim đã tái hiện lại cuộc sống sinh hoạt của ngưởi Nhật và nó khiến họ nhớ lại quá khứ - thời kì sau chiến tranh[5]. Khi ấy, phần lớn gia đình người Nhật đều là gia đình hạt nhân, tức là có hai thế hệ: bố mẹ và con cái, mỗi gia đình lại sinh từ 2 đến 3 con. Loại hình gia đình với sự phân chia vai trò theo giới: “Chồng làm việc bên ngoài xã hội, vợ làm nội trợ” chiếm một vị trí áp đảo trong xã hội. Đây là nhưng đặc điểm chung nhất của các gia đình Nhật Bản thời kì ấy và cũng là điểm độc đáo khác biệt giữa Nhật Bản với các quốc gia khác.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, phụ nữ Nhật Bản không hề tiến thân vào xã hội mà ngược lại, họ đồng loạt kết hôn, sinh con, trở thành người phụ nữ của gia đình. Hầu hết phụ nữ khi chưa kết hôn đều đi làm, nhưng khi đã kết hôn và sinh con, hầu hết trong số họ sẽ nghỉ việc để ở nhà làm nội trợ, chăm sóc con cái và gia đình. Sau một khoảng thời gian nhất định, con cái họ dần lớn lên, họ lại tái tham gia vào xã hội. Tuy nhiên, sau đó, cũng với sự gia tăng về tuổi tác, số lượng người làm việc sẽ lại giảm dần.
Tại Nhật Bản, tùy từng thế hệ mà số lượng phụ nữ đi làm có sự khác biệt. Ví dụ như, ở thế hệ Dankai sedai- thế hệ sinh ra trong cuộc bùng nổ dân số lần thứ nhất sau chiến tranh thế giới thứ hai, tức là năm Showa 23-27 (1948-1952). Tỷ lệ làm việc của nhóm tuổi từ 15-19 và 20-24 là cao nhất, sau đó giảm mạnh và từ 30-34 trở đi, tỷ lệ làm việc lại dần tăng lên. Khi ấy, trình độ học vấn của nữ giới thế hệ Dankai sedai chưa hẳn là cao. Vì thế, sau khi tốt nghiệp trung hộc phổ thong, hầu hết nữ giới đều không học lên cao mà xin việc đi làm ngay. Sau đó một vài năm, họ đồng loạt kết hôn ,sinh con, rút ra khỏi xã hội, chuyên tâm vào lo việc nhà và chăm sóc con cái. Với những thế hệ sinh sau Dankai sedai, họ cũng trải qua quá trình này: đi làm-kết hôn-đi làm. nhưng sự khác biệt mấu chốt là càng những thế hệ sinh gần đây thì tỷ lệ phụ nữ nghỉ làm ngày càng giảm đi, đồng nghĩa với việc họ không kết hôn và sinh con. Họ vẫn trải qua quá trình này giống thế hệ Dankai sedai, tức là kết hôn , sinh con và làm nội trợ. Tuy nhiên, thời gian sống cuộc sống của một bà nội trợ chỉ là khoảng thời gian ngắn, nó không phải là toàn bộ hay hầu hết cuộc đời, tuổi trẻ của họ giống như thế hệ Dankai sedai. Nguyên nhân là do sau đó, cùng với sự nâng cao của trình độ học vấn và địa vị xã hội, phụ nữ Nhật Bản đang đi đến xu hướng kết hôn muộn (Ato 2011:6). Kết hôn muộn dẫn đến thời gian sinh con đầu lòng cũng muộn đi. Và cũng với sự gia tăng của tuổi tác, ý muốn sinh con tiếp theo cũng giảm đi. Vì thế thời gian của phụ nữ dành cho con cái trở nên ít đi và họ có thể nhanh chóng xin việc, tái gia nhập xã hội. Đặc biệt, khác hẳn so với các thế hệ trước, thế hệ sinh năm Showa 53-57 (1978-1982) và Showa 58-62 (1983-1987), tỷ lệ làm việc trong độ tuổi 25-29 tăng khá mạnh. Điều đó có nghĩa là, so với thế hệ Dankai sedai, độ tuổi kết hôn thích hợp của nữ giới không phải là “Phụ nữ như một chiếc bánh giáng sinh” mà đã tăng lên 5 tuổi và đang có khunh hướng tiến tới kết hôn muộn, không kết hôn.
Như vậy, chúng ta có thể thấy được rằng, sau Chiến tranh, phụ nữ Nhật Bản không tham gia vào xã hội mà là kết hôn, trở thành những người phụ nữ của gia đình. Kết hôn,sinh con đồng nghĩa với nghỉ việc là xu hướng chung của phụ nữ thời kì đó. Hàng ngày, họ bị buộc chặt trong cuộc sống sinh hoạt chăm lo “ăn, tắm, ngủ” cho chồng, con. Trong thời kì kinh tế cao độ, hầu hết đàn ông đã kết hôn ở Nhật Bản đều ý thức được bản thân họ phải làm việc có thể duy trì sinh hoạt ở mức cao cho toàn bộ các thành viên còn lại trong gia đình. Vì thế, trách nhiệm của người vợ không phải là làm việc, mà là ở nhà làm chu đáo bổn phận của một bà nội trợ. Sự phân chia vai trò theo giới dần được hình thành và ngày càng vững chắc trong xã hội. Có nghĩa là, quan điểm về vai trò nội trợ của phụ nữ có gia đình, đã được xã hội thừa nhận và cả nam giới hay nữ giới đều sống dựa trên sự tuân thủ quan niệm này. Những quan điểm về gia đình, hôn nhân như “Đã là phụ nữ thì khi đến độ tuổi thích hợp phải kết hôn, sinh con” hay “ Là phụ nữ có nghĩa là sẽ làm nội trợ” đã chi phối toàn bộ xã hội lúc bấy giờ. Khi ấy, kết hôn và sinh con được xem là một lẽ tất thường của cuộc sống, cùng với đó, trở thành một bà nội trợ cũng là con đường đương nhiên cần phải đi của những phụ nữ có gia đình. Có thể trước khi kết hôn, họ là những người lao động làm việc ngoài xã hội, nhưng một khi đã có kết hôn, như một quy định từ trước, họ sẽ trở thành một bà nội trợ. Và với những phụ nữ không đảm nhận tốt vai trò của một người vợ, một người mẹ, chắc chắn họ sẽ bị xã hội phê phán.
Không chỉ nam giới, ngay cả nữ giới khi ấy cũng thừa nhận vai trò nội trợ của mình. Khi những người xung quanh đều tìm được gia đình riêng cho mình mà bản thân lại chưa gặp được đối tượng kết hôn thích hợp, thì trong lòng họ sẽ có một cảm giác bất an về cuộc sống tương lai của mình. Bởi, họ luôn tràn ngập trong những suy nghĩ như “Hạnh phúc chỉ có khi kết hôn” hay “Nếu không kết hôn sẽ không có cuộc sống tốt đẹp”. Kết hôn được xem như là một điều kiện đảm bảo cho cuộc sống tương lai của người phụ nữ ngay cả trên phương diện vật chất lẫn tinh thần. Khi ấy, so với nam giới họ không nhận được nhiều sự quan tâm của bố mẹ về mặt giáo dục, dẫn đến trình độ học vấn đa phần đều thấp hơn nam giới. Trình độ học vấn thấp sẽ đồng nghĩa với mức thu nhập thấp. Vì vậy, dù có không bị xã hội phê phán, họ cũng không thể có được một cuộc sống sinh hoạt ổn định nếu như không kết hôn, tức là không có một người chồng với mức thu nhập cao để trông cậy. Xét ngược lại, trong suy nghĩ của người phụ nữ cũng vậy, họ nghĩ rằng sau khi tốt nghiệp phổ thông xong sẽ đi làm một vài năm, rồi kết hôn, sinh con, ở nhà chuyên tâm lo cho gia đình. Chính bản thân phụ nữ cũng không coi trọng việc nâng cao trình độ học vấn của chính mình, trong suy nghĩ của họ, cuộc sống sau khi kết hôn sẽ dựa toàn bộ vào người chồng của mình. Bởi những lý do này, không chỉ có nam giới mà bản thân nữ giới cũng cho rằng cuộc sống của mình sau này sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào người chồng. Đồng nghĩa với việc đó, trách nhiệm của người vợ không phải là làm việc kiếm tiền mà là chuyên tâm chăm lo việc nhà, nuôi dưỡng con cái. Đây không phải là quy định của pháp luật, nhưng tất cả mọi người đều cho rằng đó là một quan niệm đúng đắn, nên đã tuân thủ một cách chặt chẽ.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng cho rằng, chính nền giáo dục và Chính phủ cũng có những đóng góp khiến cho quan niệm về phân chia lao động theo giới ở Nhật Bản được tồn tại một cách vững chắc trong một thời gian dài. Trong thời kì tăng trưởng kinh tế, nhằm tạo điều kiện cho người chồng có thể yên tâm làm việc mà không phải lo lắng cho gia đình, con cái, chính phủ Nhật Bản đã thực hiện nhiều chính sách nhằm thúc đẩy sự phân chia vai trò theo giới. Ví dụ, năm 1962, Nhật tiến hành cách giáo dục, trong đó có sự phân chia sách giáo khoa theo hai mảng kĩ thuật và nấu ăn riêng cho nam và nữ. Tiếp năm sau đó, môn học “Đại cương về gia đình” được quy định là môn học bắt buộc dành cho nữ giới[6]. Đến hiện nay, chính phủ Nhật Bản vẫn đang hướng đến mẫu gia đình dựa trên sự phân chia theo giới. Như trên đã trình bày, xét cho đến cùng thì chế độ “Đối tượng được bảo hiểm số 3” hay “Khấu trừ người phối ngẫu’ là sự khích lệ phụ nữ làm công việc nội trợ. Chẳng phải là chính phủ Nhật Bản đang cố gắng để hướng nữ giới quay lại cuộc sống của thời kì những năm kinh tế cao độ, kết hôn, sinh con và trở thành người phụ nữ của gia đình? Để giải quyết vấn đề kết hôn muộn và không kết hôn, có rất nhiều phương pháp được đề ra nhưng tại sao chính phủ Nhật Bản lại tập trung đi sâu vào các chính sách trợ giúp người làm nghề nội trợ. Đó là vì sự phân chia vai trò theo giới sẽ giúp gia đình Nhật Bản đi vào quỹ đạo ổn định, các ông chồng có thể yên tâm đi làm, và điều đó là điều kiện tiền đề cho sự phục hồi của nền kinh tế Nhật Bản. Người phụ nữ muốn hoàn thành trách nhiệm của một bà nội trợ và cũng là thiên chức được ban tặng thì trước hết phải tạo ra một môi trường để mình có thể thực hiện được nó, nghĩa là phải kết hôn, sinh con. Tóm lại, trong thập niên 50-70, vai trò nội trợ của nữ giới không những được quy định bởi những quy phạm xã hội mà nó còn được chính phủ Nhật Bản khích lệ, xem như là một chiến lược thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Như vậy, sau chiến tranh thế giới thứ 2, phụ nữ Nhật Bản không phải tiến thân vào xã hội mà là “gia đình hóa” hay “nội trợ hóa”. Sự phân chia vai trò theo giới dần được xã hội chấp nhận và trở thành một khuynh hướng chủ yếu. Những suy nghĩ như “đồng thời với kết hôn, sinh con là làm nội trợ” trong một thời gian dài chi phối người phụ nữ. Ngược lại với người chồng, một khi đã ra ngoài làm việc là không phải lo lắng bất cứ điều gì về gia đình thì với người vợ, chăm lo cho gia đình, con cái là bổn phận mà họ cần hoàn thành. Đã là một người vợ mà không chăm lo tốt cho chồng, con thì tất yếu sẽ bị xã hội phê phán,c ười chê. Đồng thời, không chỉ xã hội quy định mà ngay cả chính phủ Nhật Bản cũng ủng hộ loại hình gia đình có sự phân chia vai trò theo giới.
Trong bối cảnh quan niệm về hôn nhân có nhiều thay đổi, việc kết hôn hay không không còn là vấn để quan trọng, mỗi người có quyền tự do lựa chọn cuộc sống mà mình mong muốn. Nếu lựa chọn kết hôn có thể trở thành một bà nội trợ, ở nhà chuyên tâm chăm lo cho gia đình, chồng con hay vừa đi làm vừa chăm sóc con cái, nghĩa là vừa có được niềm vui với cuộc sống trong hôn nhân vừa có thể thực hiện cái tôi riêng của mình. Ngược lại, nếu lựa chọn lối sống độc thân có thể sống tự do mà không bị vướng bận vào gia đình, con cái. Nhưng thực tế, dù lựa chọn cuộc sống như thế nào thì vẫn tồn tại tâm lý băn khoăn lo lắng. Ví dụ như, hiện tại họ có thể thấy thỏa mãn với cuộc sống độc thân nhưng tương lai, có ai dám khẳng định mình sẽ không hối hận với sự lựa chọn hiện tại và lựa chọn một lối đi khác. Bất cứ con đường nào mà họ lựa chọn cũng đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] http://jgss.daishodai.ac.jp/research/monographs/jgssm12/jgssm12_07.pdf
[2] Thế hệ được sinh ra Sau Chiến tranh
[3] 落合恵美子(2004).『21世紀家族へ―家族の戦後体制の見かた・超えかた』pp. 162、有斐閣選書
[4] http://www.mhlw.go.jp/wp/hakusyo/kousei/13/dl/1-02-3.pdf
[5] 落合恵美子(2004)『21世紀家族へ―家族の戦後体制の見かた・超えかた』pp.78、有斐閣選書
[6] 目黒依子・紫田弘捷 (1999).「企業主義と家族」目黒依子・渡辺秀樹『講座社会学〈2〉家族』、pp.59-87、東京大学出版会
Nguồn: http://cjs.inas.gov.vn