****
Hỏi: Ông đến với nghiên cứu Hán học như thế nào?
Đáp: Nói thực ra chẳng có gì đặc biệt. Vào thời chúng tôi, sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học, tôi phải nhập ngũ hai năm. Ở lực lượng không quân tôi học tiếng Nga hai năm, khi vào đại học các bạn tôi đều chọn học tiếng Pháp, tiếng Đức, riêng tôi cảm thấy chán, tôi muốn nghiên cứu văn hóa của một quốc gia ngoài Châu Âu. Thế là khi nghe một người bạn nói về việc học tiếng Trung Quốc, tột chợt nhận ra rằng đây chính là điều tôi đang tìm kiếm, thế là tôi cùng đi học với anh ta. Bây giờ anh ấy là đại sứ Anh ở Hungary và rất tiếc là công việc anh làm không liên quan tới Trung Quốc, nhưng với tôi quyết định lúc đó là một quyết định quan trọng cả đời tôi.
Thực tế khi tôi bắt đầu học tiếng Trung, tôi chỉ nắm được một cách mơ hồ, đành phải mò mẫm từ đầu. Ngẫm sang các bạn đồng môn của tôi, hầu như ai cũng như vậy.
Những vật dụng trong phòng giáo sư Glen Dudbridge do một nhà văn người Anh mua từ Trung Quốc, nay được xem như một trong số những báu vật của Học viện Magdalene, Đại học Cambridge.
Nghiên cứu Tây Du Ký – hứng thú cả đời của ông
Hỏi: Đó hẳn là một quyết định rất can đảm – theo đuổi một nền văn hóa hoàn toàn xa lạ, có bao giờ ông hoài nghi hay có cảm giác rằng không thể tiếp tục được nữa không?
Đáp: Theo tôi, những cảm giác đó là điều không thể tránh khỏi đối với một sinh viên ngoại quốc khi mới bắt đầu học ngành Trung Quốc học. Nhất là trong hai, ba năm đầu, dù rất miệt mài nghiên cứu nhưng không thấy kết quả. Có quá nhiều thứ để học. Đầu thì chứa đầy ký tự Hán văn nhưng khi cầm một cuốn sách, lại không thể đọc một cách trôi chảy, đặc biệt là do cổ văn và tiếng phổ thông ngày nay lại quá khác biệt, loại nào cũng có những điểm khó khăn riêng, thật khó học vô cùng. Cũng may là thời trung học được học tiếng Latin và Hy Lạp cổ, nên chúng tôi biết được cách duy nhất để hiểu một nền văn hóa khác là dành nhiều thời gian và sự miệt mài.
Hỏi: Và ông đến với nghiên cứu tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc như thế nào?
Đáp: Tôi vốn thích văn học, xu thế nghiên cứu Trung Quốc vào thời đó tập trung chủ yếu vào văn học và kịch nghệ (hí khúc). Vì vậy, khi lên năm thứ ba, tôi vinh dự làm học sinh của giáo sư Trương Tâm Thương (张心沧H. C. Chang – giáo sư tốt nghiệp Đại học Quang Hoa ở Thượng Hải, sau đó di cư sang Anh Quốc học nâng cao và lấy bằng tiến sĩ ngữ văn, đã giảng dạy tại Đại học Cambridge hơn 30 năm). Có thể nói chúng tôi có được ngày hôm nay cũng nhờ vào quá trình đào tạo của giáo sư. Việc chọn tác phẩm Tây Du Ký làm luận án tiến sĩ của tôi là kết quả của những cuộc trò chuyện với vị giáo sư này. Dĩ nhiên, khi bắt đầu tôi không biết chính xác hướng đi cho luận án nhưng dần dà tôi nhận ra điều thu hút nhất không phải là 100 chương của cuốn tiểu thuyết Tây Du Ký mà là nó đã hình thành và diễn biến như thế nào. Thế nên luận án của tôi và cũng là cuốn sách đầu tiên của tôi xuất bản năm 1970 chính là về tiểu thuyết Tây Du Ký.
Người say mê “Tôn Hành Giả”
Hỏi: Do vậy nghiên cứu của ông chủ yếu là khảo cứu so sánh nguyên bản phải không?
Đáp: Đúng vậy. Nhưng đây chỉ là một phần. Mặt khác, các tác phẩm tiểu thuyết, kịch nghệ, thần thoại, truyền thuyết dân gian Trung Quốc thời ấy đều được tôi khảo cứu qua.
Tôi đặc biệt hiếu kỳ đối với nhân vật khỉ Tôn Hành Giả. Tôi tự hỏi tại sao một tác phẩm như vậy lại chọn hình tượng một con khỉ làm nhân vật trung tâm? Đương nhiên từ Phong trào Ngũ Tứ về sau có không ít các học giả nghiên cứu qua. Mặc dù là nghiên cứu nội hàm (tức là tìm đáp án từ bản thân tác phẩm) hay nghiên cứu ngoại diên (tức là tìm đáp án trong các tác phẩm truyền thuyết khác), song mỗi nghiên cứu lại có một đáp án khác rất phức tạp, lộn xộn. Khi tôi bắt đầu miệt mài nghiên cứu mới phát hiện ra rằng các quan điểm trước đây đều thiếu tư liệu phân tích. Do vậy trong luận án của mình tôi đã vội vàng đưa ra kết luận tiêu cực, một kết luận không có định luận. Dĩ nhiên từ năm 1970 đến nay, các nguồn tư liệu mới và các thành quả nghiên cứu không ngừng được các học giả công bố. Đến năm 1987, tôi đi Đài Bắc tham gia Hội thảo quốc tế về hí kịch và tiểu thuyết Trung Hoa thời kì Minh-Thanh do Bảo tàng Trung ương tổ chức. Tôi tham gia báo cáo cùng đề tài này. Khi ấy tôi phát hiện ra rằng nghiên cứu của tôi trước đây vẫn chưa hoàn chỉnh.
Hỏi:Tôi còn nhớ lúc nhỏ tôi đã được đọc một tác phẩm nói về một con khỉ thần của Ấn Độ, trong đó nhiều tình tiết rất giống với nhân vật Tôn Hành Giả trong Tây Du Ký, vậy xin hỏi ông hai nhân vật này có liên quan với nhau không?
Đáp: Đúng vậy. Nói về mối liên hệ giữa khỉ thần trong Sử thi Ramayana của Ấn Độ với Tôn Hành Giả hiện đã có rất nhiều người nghiên cứu. Tôi cũng thừa nhận hai nhân vật này có nhiều điểm tương đồng. Nhưng có điều tôi không bằng lòng thứ nhất là nếu nói tác phẩm Tây Du Ký chịu ảnh hưởng của Sử thi Ramayana, bạn phải nhất thiết chỉ ra rằng mặt ảnh hưởng đó đã truyền vào Trung Quốc như thế nào? Nhưng có lẽ về vấn đề này ta có quá ít chứng cứ chứng minh. Kinh Phật có đôi chỗ đề cập song chưa diễn đạt cụ thể. Thứ hai, nếu cho nhân vật Tôn Hành Giả bắt nguồn từ Sử thi Ramayana, chúng ta cũng chưa đủ chứng cứ để lập luận tại sao trong Tây Du Ký lại nhất thiết phải có một nhân vật khỉ? Con khỉ này có quan hệ gì đến việc Đường Huyền Trang đi Tây Thiên thỉnh kinh? Điều tôi suy nghĩ hiện nay là tình tiết Tôn Hành Giả đến cung Tây Vương Mẫu trộm bàn đào. Nói về bàn đào, đào là hình ảnh tượng trưng cho phúc thọ trong văn hóa Trung Quốc, mang hàm ý tôn giáo sâu sắc, trong khi đó, khỉ lại là loài giỏi “trộm trái cây”. Hơn nữa, câu chuyện đi Tây Thiên thỉnh kinh này cũng hàm ý “hái lấy quả cây”. Tuy vậy đây vẫn là một ý kiến mà tôi vẫn chưa có đủ chứng cứ để kết luận điều này.
Hỏi: Thế ông cũng đã nghiên cứu vì sao trong Tây Du Ký lại có các nhân vật thủy quái Sa Hòa Thượng và Trư Bát Giới chứ?
Đáp: Đúng vậy. Sự xuất hiện của Sa Tăng là dễ giải thích hơn cả. Trong Huyền Trang truyền ký thời Đường có ghi chi tiết Huyền Trang đánh rơi bình nước trên bãi cát, ông nằm mơ thấy thần hiện ra dạy bảo, khi tỉnh dậy con ngựa đã đắt Huyền Trang tìm đến chỗ có nước uống. Vị thần trong giấc mộng ấy của Huyền Trang chính là Thâm Sa Thần (深沙神). Trư Bát Giới là chuyện về sau, trong nguyên bản Tây Du Ký đời Tống chỉ có con khỉ và ngựa. Vấn đề giải thích sự xuất hiện của Sa Tăng và Trư Bát Giới đều không khó. Song vấn đề của Tôn Hành Giả mới thú vị.
Từ văn học truy tìm diện mạo xã hội
Hỏi: Đôi lúc so sánh văn chương là đề tài nóng bỏng, nhiều người thích nhìn văn học Trung Quốc từ các quan điểm khác nhau của người phương Tây. Chẳng hạn, trong Tây Du Ký có đoạn Tôn Ngộ Không thật và giả giao chiến, có người giải thích rằng Tôn Ngộ Không thật và giả cũng chính là Tôn Ngộ Không, đó là cái “tự ngã” (自我 - chính mình) và cái “siêu tự ngã” (超自我 - vượt qua chính mình) đang mâu thuẫn, đang tranh đấu với nhau. Ông nghĩ gì về điều này?
Đáp: Đúng vậy. Chi tiết Tôn Ngộ Không thật và giả đánh nhau đã xuất hiện trong câu chuyện Tây Du Ký thời Minh, đồng thời cũng có trong Sử thi Ramayana của Ấn Độ. Song quan điểm của tôi về toàn bộ vấn đề này là qua các câu chuyện giống như Tây Du Ký, chúng ta dễ dàng nhận ra nhiều tầng ý nghĩa ẩn hàm chứa trong nó. Một người theo chủ nghĩa Mác khi xem Tây Du Ký sẽ nhận ra sự thể hiện của chủ nghĩa Mác. Một người nghiên cứu quá trình phát triển tâm lý trẻ em sẽ nói “Thì ra tất cả đều được trình bày rất rõ ràng”. Thậm chí ngay cả những nhà nho theo học thuyết Tống-Minh và các đạo sĩ Đạo giáo theo thuyết “âm dương ngũ hành, tương sinh tương khắc” cũng thấy nó thích hợp với học thuyết của mình. Đối với vấn đề này, ai nói thế nào cũng được. Cho nên tôi không hứng thú lắm về loại hình phê bình văn học kiểu này.
Khi đọc văn chương Trung Quốc, mục đích của tôi không phải là “biên dịch” để hiểu một cách máy móc mà là nghiên cứu tại sao xã hội Trung Quốc có dạng văn chương như vậy và bối cảnh phong tục, tín ngưỡng, lịch sử và những khía cạnh tương tự của tác phẩm này như thế nào. Do vậy tôi thường dùng quan điểm của nhà nhân học xã hội để đánh giá văn học.
Hỏi: Vậy ông đã rút ra điều gì từ tác phẩm Tây Du Ký? Ông có hay không có một kết luận riêng?
Đáp: Tôi chỉ có kết luận sơ bộ, bởi vì tôi chưa tìm ra chứng cứ đầy đủ. Trước tiên tôi phát hiệt ra rằng ở Singapore, Hồng Kông khi người ta đưa linh cữu đi chôn đều có người hóa trang thành các nhân vật trong Tây Du Ký như Tôn Hành Giả, Trư Bát Giới rồi nhảy múa. Tôi rất lấy làm ngạc nhiên rằng các nhân vật ngộ nghĩnh buồn cười chỉ có trong trí tưởng tượng này thì có liên hệ gì đến nghi thức đưa tiễn linh cữu? Hiện tại, tôi chỉ đưa ra giải thích rằng Đường Tăng đi thỉnh kinh ở phía tây, mà phía tây ở đây là Ấn Độ, cũng là thiên đường. Do trên đường đi rất hiểm trở nên cần có các vị thần tiên trợ giúp. Trong khi đó, trong lễ tống tiễn linh cữu, các nhân vật trong Tây Du Ký thực hiện nhiệm vụ sau: Đường Tăng cùng các đồ đệ dẫn đường đưa linh hồn về Tây Thiên.
Cách giải thích này của tôi xem ra cũng có lý, song vấn đề đặt ra là vào thời kì Đường, Tống liệu đã có quan niệm “lên Tây Thiên” hay chưa? Đây là vấn đề khó khăn. Các tác phẩm thư tịch cổ đa phần không đề cập đến hiện tượng tống tiễn linh cữu như thế này, bởi lẽ đây không phải là đề tài viết văn lý tưởng. Điều mà tôi nghiên cứu ra là vào đời Hán người ta có phong tục “phương tướng”(方相). Phong tục này có tác dụng xua đuổi tà ma. Nhân vật đóng vai “phương tướng” cùng với 12 người đồng hành, hóa trang đầu đội mặt nạ, khoác lên mình chiếc áo da thú, cùng nhảy nhót, la hét, đánh trống liên hồi. Hoạt động này thường diễn ra vào dịp năm mới. Nói chung, đây cũng chỉ là ý tưởng ban đầu, tôi vẫn chưa có đủ chứng cứ để kết luận.
Vấn đề nhỏ nhưng được phân tích sâu nên cần có tư liệu nghiên cứu rộng
Hỏi: Vậy thì ông dễ tìm thấy chứng cứ cho mình trong lĩnh vực tư liệu nào?
Đáp: Tôi thấy có hai con đường đáng quan tâm: một là tiểu thuyết bút ký và văn học thời Đường. Các câu chuyện này đều là các câu chuyện hư cấu song nó hàm chứa không ít lượng tri thức và hiện tượng xã hội đương đại, nó bao gồm cả đời sống văn nhân và đời sống dân dã. Một con đường khác là khảo cổ: Nhà nước Trung Quốc mấy năm gần đây đã cho khai quật nhiều ngôi mộ cổ, có cả các ngôi cổ tự, tượng Phật v.v.. Các cổ vật được tìm thấy rất phong phú. Tôi còn nhớ lần trước khi đọc tạp chí Văn vật (文物)do Trung Quốc đại lục xuất bản có bài viết có một bức bích họa thuộc vương triều Tây Hạ có niên đại thời kì Bắc Tống được tìm thấy ở Cam Túc. Trong bức bích họa này rõ ràng có hình ảnh các nhân vật Đường Tăng, con khỉ và con ngựa. Trên lưng ngựa lại có đầy ắp kinh Phật. Đây chính là nguồn tư liệu quan trọng đối với tôi, do vậy theo tôi những phát hiện khảo cổ mới cũng cần được chú ý nhiều hơn.
Hỏi: Thế ông phải thu thập tất cả tư liệu có liên quan đến nền văn hóa Trung Hoa chứ ạ?
Trả lời: Thế này nhé, hứng thú nghiên cứu của tôi là đề mục trung điểm thường rất nhỏ, ví dụ như hình ảnh “con khỉ trong Tây Du Ký” chẳng hạn. Thế nhưng để nghiên cứu tôi phải tìm kiếm tư liệu rất rộng. Do vậy, theo tôi ta không phải chỉ nhìn tiểu thuyết Trung Hoa chỉ bằng con mắt tiểu thuyết mà phải nhìn bằng con mắt của cả nền văn hóa. Có điều tôi không dám nói “cả nền văn hóa Trung Hoa” vì tri thực của mình có hạn, hiểu biết quá ít nên việc nghiên cứu văn hóa Trung Hoa lại ngày càng khó khăn ….
Với tính cách trung thực, giản dị và nghiêm túc, giáo sư Glen Dudbridge có phong thái của một nhà Hán học quốc tế
Trong các loại hình tiểu thuyết, hí kịch, hay các hoạt động dân gian đâu đâu cũng có thể tìm thấy hình ảnh Tôn Ngộ Không. Trong hình là diễn viên kịch nổi tiếng Tôn Nguyên Bân và chiếc mặt nạ Tôn Ngộ Không
Vấn đề Quan Âm Bồ Tát và phụ nữ Trung Hoa
Hỏi: Xin được đề cập đến quyển sách thứ hai của ông “Diệu Thiện Truyền Thuyết” (妙善传说)?
Đáp: Câu chuyện Diệu Thiện nhìn chung có quan hệ với Quan Âm Bồ Tát. Mặc dù không giống với các tác phẩm kinh điển như Tây Du Ký hay Tam Quốc Diễn Nghĩa song câu chuyện truyền thuyết giản dị này vẫn được dân gian yêu thích. Do vậy, tác phẩm này cũng đáng được nghiên cứu. Đại ý của câu chuyện này như sau: Công chúa Diệu Thiện là con gái thư ba của vua Diệu Trang Vương (妙庄王) vốn chỉ niệm Phật ăn chay mà không chịu lấy chồng. Người cha phẫn nộ đuổi nàng đi khỏi nhà. Nàng vào làm khổ sai ở một ngôi am tự. Người cha thấy con vẫn không thay đổi ý định đành đốt luôn ngội am tự. Nàng Diệu Thiện chết, linh hồn xuống địa ngục. Vì nàng vốn là Bồ tát nên toàn địa ngục đều mọc đầy hoa sen, kẻ có tội đều được siêu thăng. Sau khi nàng và mọi người đã trở lại dương thế đã đến cư ngụ trên núi Hương Sơn. Chẳng lâu sau Diệu Trang Vương lâm bệnh nặng, cần phải ăn tay và mắt của vị thánh nhân Hương Sơn (香山圣人, cũng tức là Diệu Thiện) mới mong khỏi bệnh. Diệu Thiện nghe tin đã hiến tay và mắt của mình để cứu cha. Cuối cùng cha con đoàn viên, Diệu Thiện biến thành vị Quan âm Bồ tát nghìn mắt nghìn tay.
Lần đầu tiên xem câu chuyện này tôi rất ngạc nhiên. Tại sao cha lại giết con chỉ vì con mình không chịu lấy chồng? Tại sao cần phải ăn cánh tay và con mắt của con gái mới khỏi bệnh? Tôi đã tiến hành nghiên cứu mới biết rằng câu chuyện này xuất hiện vào đời Tống, có quan hệ mật thiết với bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Ngoài ra, Trong truyền thống lịch sử Trung Hoa, người phụ nữ dường như lúc nào cũng chịu nhiều tủi nhục, không có quyền lựa chọn hôn nhân cho mình. Tôi biết rằng ngày nay ở Trung Quốc có một số phụ nữ không muốn lấy chồng. Họ có thể là thành viên của một giáo đoàn nào đó. Họ thường thích đọc các tác phẩm đại loại như Diệu Thiện Truyền Thuyết.
Hỏi: Ông đến với văn học Trung Hoa là do tình cờ đọc được những tác phẩm như vậy hay là do ông đã có tâm ý trước rồi mới tìm đọc các tác phẩm này hoặc cả hai cùng bổ trợ nhau?
Đáp: Truyền thuyết Quan Âm Bồ Tát thực ra là một câu chuyện mang tính tôn giáo thuần túy nhưng lại mượn hình ảnh nàng công chúa để thể hiện. Vả lại về sau lại có chi tiết xuống địa ngục và các diễn biến khác. Tất cả đều có chung một mục đích là thể hiện sự thích ứng với xã hội. Đây chỉ là một ví dụ cụ thể về công tác nghiên cứu lĩnh vực xã hội Trung Quốc có liên quan đến các tiểu thuyết. Công việc này vẫn còn nhiều việc phải làm.
Hỏi: Ông vừa đề cập đến mối quan hệ giữa Quan Âm Bồ Tát và người phụ nữ Trung Hoa, nhưng trong kinh Phật, Quan Âm Bồ Tát hình như vừa là nam vừa là nữ?
Đáp: Thực ra Phật Quan Âm trong truyền thống Phật giáo Ấn Độ là nam giới. Song ở Trung Hoa lại là nữ. Vấn đề này đã được nhiều người nghiên cứu, không chừng Diệu Thiện Truyền Thuyết là một tác phẩm quan trọng trong nghiên cứu vấn đề này. Nhưng có điều các thảo luận xung quanh vấn đề này rất rắc rối, do vậy tôi cố tình nghiên cứu truyền thuyết này ở một góc độ khác. Những vấn đề khác tôi tạm chưa tính đến.
Dùng phương pháp nghiên cứu “Kịch Shakespear” để chỉnh lý “Lý Oa” (李娃)
Hỏi: Ông cũng đã từng viết cuốn Lý Oa Truyện, nhiều trường đại học ở Mỹ muốn mở môn học Đường Truyền kỳ đều phải tham khảo cuốn sách này?
Đáp: Vâng. Lý Oa Truyện (李娃传) là một câu chuyện rất thú vị, rất lôi cuốn sinh viên. Trong quá trình giảng dạy, mỗi năm tôi đều có những phát hiện mới: một số đặc điểm, bối cảnh, điển cố v.v.. Cuối cùng tôi quyết định ngồi chỉnh lý từ đầu tới đuôi câu chuyện này. Tôi đã dùng phương pháp của học giả phương Tây nghiên cứu Shakespear để khảo cứu từng hàng, từng từ trong câu chuyện, rồi đến xuất xứ. Sau đó tôi dịch câu chuyện, chú giải, so sánh với các bản gốc rồi viết sách giới thiệu gần trăm trang, có thể nói là tôi đã chỉnh lý Lý Oa Truyện theo năng lực cao nhất của cá nhân tôi. Đây chẳng qua chỉ là “đãi cát tìm vàng”. Thực tế hãy còn nhiều tác phẩm tương tự đáng để chỉnh lý.
Kiểm chứng văn học từ xã hội
Hởi: Ông đã từng tham khảo qua các tác phẩm văn học Trung Quốc cận đại và hiện đại rồi phải không?
Đáp: Nói thật tôi chỉ có hứng thú nghiên cứu tiểu thuyết cổ đại chứ các tiểu thuyết cận hiện đại tôi chỉ thỉnh thoảng xem qua thôi.
Hỏi: Sau chiến tranh Nha phiến, xã hội Trung Hoa đã có những chuyển biến to lớn, vậy thì liệu xã hội Trung Hoa mà ông nhìn nhận từ các tiểu thuyết cổ đại có khác xa với xã hội hiện đại hay không?
Đáp: Không nhất thiết như thế. Như thế này, nếu một người phương Tây hy vọng có thể tìm hiểu được xã hội Trung Quốc bằng cách chỉ ngồi đọc các tác phẩm tiểu thuyết (cổ đại cũng như cận đại) ở thư viện Cambridge, thì dù cho sách ở thư viện có phong phú đến mấy đi nữa thì anh ta cũng không thể thực hiện được mong muốn của mình. Chúng ta phải tự thân kiểm nghiệm thực tế. Nói về bản thân, thời tôi còn làm việc ở Viện Nghiên cứu, tôi đã dành trọn một năm ở Thư viện Tân Á ở Hồng Kông, cùng học (làm việc) chung với các bạn người Trung Quốc. Sau khi trở về Đại học Cambridge, tôi đem những kinh nghiệm thực tế ra khảo chứng, bỗng nhiên tôi thấy mình có thể phát hiện nhiều hơn những tầng ý nghĩa hàm chứa trong sách vở. Bàn về sự khác nhau giữa xã hội hiện đại và cổ đại, sau khi anh đã làm quen với người Trung Quốc ở Hồng Kông và Đài Loan, anh hãy đọc lại Hồng Lâu Mộng và Nho Lâm Ngoại Sử, anh vẫn cảm thấy rất quen thuộc. Mặc dù ngày nay không có các gia đình quý tộc thế gia nhưng tất cả họ đều là người Trung Quốc và có bản chất tính cách giống nhau. Lý do khiến những tác phẩm này trở nên bất hủ là vì chúng đề cập đến những vấn đề phổ biến của mọi thời đại. Các nhân vật Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới trong Tây Du Ký cãi nhau, trông chẳng phải giống con người lắm sao? Dĩ nhiên tất cả những điều này nói thì rất dễ nhưng khi giảng dạy cho sinh viên lại rất khó.
Nghiên cứu tài liệu, nhặt đâu cũng có
Hỏi: Đề tài nghiên cứu mới nhất của ông là gì?
Đáp: Là quyển Quảng Dị Ký (广异,记Kuang-I chi) trong bộ Thái Bình Quảng Ký (太平广记, bộ sưu tập từ thời Tống). Quyển Quảng Dị Ký đã biến mất khá lâu nhưng nhiều phần vẫn được lưu trữ trong Thái Bình Quảng Ký. Hai năm trước tôi đã viết cuốn Bước đầu nghiên cứu Quảng Dị Ký, nghiên cứu sơ bộ về bản gốc, tác giả, niên đại v.v.. Nội dung tác phẩm này thật hấp dẫn. Tác giả Đới Phú (戴孚Tai Fu) vốn là một quan chức bình thường sau cuộc nổi dậy của An Lộc Sơn. Ông đã ghi lại tất cả các câu chuyện siêu nhiên thần quái được lưu truyền tại địa phương. Về mặt này, tác phẩm có thể phản ánh các khía cạnh tín ngưỡng tôn giáo dân gian trong xã hội Trung Hoa thời Đường.
Hỏi: Phải chăng đây cũng là một công việc nhìn nhận xã hội qua tiểu thuyết?
Đáp: Đúng vậy. Nhưng Thái Bình Quảng Ký chỉ là xuất phát điểm, tôi còn phải nghiên cứu địa phương chí, bia văn, tản văn, chính sử, sách tạp lục, v.v.. Tất cả các loại tư liệu đều rất quan trọng. Đặc biệt là bia văn, từ sau thời Tống, các văn nhân đều thích viết bia ký, nhưng chủ yếu là viết thư pháp. Thực ra, bia văn cũng có giá trị lịch sử, rất đáng để tham khảo.
Ví dụ, trong tác phẩm Quảng Dị Ký có một câu chuyện kể về vùng An Dương bỗng nhiên các viên quan tri huyện chết liên tục làm mọi người hoảng sợ. Cuối cùng có một vị quan huyện mới đến, ông suốt đêm không ngủ mà chờ đợi. Quả nhiên nửa đêm xuất hiện một con ma. Con ma này vốn là một nhân vật lịch sử. Linh hồn ấy chính là Úy Trì Quýnh (尉迟迥) thời Bắc Chu, do chống lại nhà Tùy nên bị giết. Thi thể nằm ngay dưới phần đất huyện phủ không được an táng chu đáo nên đêm đêm hiện lên quấy phá. Viên tri huyện mới hứa cải táng chu đáo cho thi thể dưới lòng đất kia nên về sau cả huyện đều thái bình, đồng thời gia đình vị tri huyện kia còn được bảo hộ.
Sau khi xem xong câu chuyện này tôi mới phát hiện trên một bia kí trong một ngôi miếu nào đó có kể về chuyện một vị tri huyện đã lập miếu cho Úy Trì Quýnh. Câu chuyện này chỉ khác biệt đôi chút so với câu chuyện trong Quảng Dị Ký. Về sau tôi phát hiện trong chính sử Trung Hoa cũng có câu chuyện này. Ngoài ra, một bia ký đời Thanh cũng có kể về câu chuyện vị tri huyện nói trên. Tôi liền đem bốn câu chuyện so sánh, nghiên cứu những điểm khác biệt và quan hệ lẫn nhau giữa chúng.
Miệt mài nghiên cứu, nhất định không chịu thua
Hỏi: Làm sao ông biết được bia ký có liên quan ở đâu?
Đáp: Ta phải đi dần từng bước thôi. Nhưng thường thì chúng ta lại có những phát hiện may mắn ngẫu nhiên. Trong công việc nghiên cứu, ngoài việc giỏi nắm vững các loại sách công cụ, các phương pháp nghiên cứu ra thì “cơ may” cũng rất quan trọng. Chẳng hạn, bia ký cũng có một số sách hướng dẫn tra cứu. Một lần nọ khi lật đi lật lại một quyển sách, tôi vô tình nhìn thấy ba chữ “Úy Trì Quýnh”. Tôi cảm thấy ba chữ này rất quen, xem kỹ, thì ra đó chính là câu chuyện nói trên! Quả thật phát hiện tình cờ này rất thú vị, làm tôi ngây ngất.
Hỏi: Đây cũng có thể nói là thành quả của thái độ “không bao giờ ngơi nghỉ” của ông không?
Đáp: Cũng có thể nói như vậy. Lương Khải Siêu trong một bài diễn giảng có nói rằng khi bạn đang tập trung giải quyết một vấn đề gì chỉ cần bạn nhọc tâm một chút thì những thứ có liên quan, những thứ bạn cần cứ như “tự động” nhảy ra trước mắt. Giống như nhân vật Úy Trì Quýnh kể trên, tôi có thể lật 1000 trang Trung văn nhưng tôi có thể chỉ ra tất cả các trang có ba chữ “Úy Trì Quýnh” trong tích tắc. Bộ não người nghĩ cũng kỳ lạ, khi bạn tập trung vào một vấn đề gì, đôi mắt bạn sẽ tự động giúp bạn tìm ra cái bạn cần.
Hỏi: Đó có phải là sự liên thông ngầm giữa não và mắt?
Đáp: Đúng vậy. Nhưng tốt hơn chúng ta nên ghi lại. Nếu chúng ta tỉ mỉ góp nhặt thì một năm, hai năm sau, bạn sẽ có cả núi tư liệu.
Hỏi: Tuy là thế nhưng có khi nào ông muốn nghiên cứu một vấn đề gì đó nhưng số tư liệu tìm được quá ít ỏi và cuối cùng ông bỏ cuộc?
Đáp: Có khi không tìm biện pháp giải quyết. Cũng có khi tôi phải “đành” chấp nhận ở mức hiện có. Trước tiên tôi viết ra thành văn, nếu không có kết luận cuối cùng cũng đành chịu. Quyển sách đầu tiên của tôi nghiên cứu về Tây Du Ký cũng không có kết luận như thế. Qua mười năm, dần dà tôi đã phát hiện ra nhiều điều mới, nhiều ý tưởng mới cho đề tài của mình. Tôi cho rằng cách này không có gì không tốt. Chỉ cần bạn không buông xuôi hoàn toàn, chắc rằng một ngày nào đó bạn sẽ tìm được đáp án vừa ý.
Con đường nghiên cứu tuy thầm lặng nhưng rất hài lòng
Hỏi: Hán học thật ra không phải là lĩnh vực nghiên cứu hấp dẫn ở Anh, và càng có ít người nghiên cứu về văn học Trung Hoa cổ. Có bao giờ ông cảm thấy cô quạnh không?
Đáp: Cô nói đúng lắm, quả là tôi cũng cảm thấy ít nhiều cô quạnh. Nhưng với tôi niềm đam mê lớn nhất là công việc nghiên cứu. Đây là cách hưởng thụ cá nhân. Niềm đam mê và cách hưởng thụ ấy không phải do người khác mang lại mà phải do chính chúng ta khám phá trong số tài liệu nghiên cứu. Và mỗi khi tìm thấy một phát hiện mới là cảm giác ngây ngất sẽ đến với chúng ta. Tôi không mong đợi những quyển sách tôi viết có đến hàng ngàn hàng vạn độc giả, chỉ cần hai hoặc ba độc giả cũng đủ rồi. Nếu đôi lúc tôi nhận được một bức thư của ai đó sau khi đọc sách của tôi cảm thấy thú vị và mong muốn được gặp hay trò chuyện thì điều đó khiến tôi càng hạnh phúc – cũng có nghĩa là tác phẩm đã không bị lãng phí. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã đọc rất nhiều sách hay và cũng có rất nhiều bạn tốt trong lĩnh vực mà tôi theo đuổi, thế thì đâu còn gì phải than phiền
---o0o---
Tóm tắt tiểu sử Giáo sư Glen Dudbridge
-----o0o----
1938: Sinh tại Somerset, miền tây nam nước Anh.
1958 – 62: Học ngành Trung Quốc học ở Đại học Cambridge
1963 – 64: Du học một năm ở Viện Nghiên cứu New Asia, Hồng Kông
1967: Nhận bằng tiến sĩ Cambridge cho luận án với đề tài liên quan đến Tây Du Ký
1965 – 85: Giảng viên Đại học Oxford
1985: Giáo sư ngành Trung Quốc học, Đại học Cambridge
1989: Giáo sư ngành Trung Quốc học, Đại học Oxford
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Tiểu thuyết văn học thời Minh, Thanh
Các ấn bản đã công bố: Tây Du Ký, Diệu Thiện Truyền Thuyết, Lý Oa Truyện