1. Học vấn, theo Khổng tử, có tính nền tảng và khơi mở toàn diện
Thiếu học vấn, con người sẽ thiếu khả năng nhận thức, biện biệt, do đó, đức tính của con người sẽ bị che lấp và thường là hành động lệch lạc, tai hại. NHÂN là đức tính tốt, nhưng người thích làm điều “nhân” mà không có học vấn sẽ thiếu lý trí, bị người ta lấy việc “nhân” lừa mình, mình thành ra người NGU. Tương tự, thiếu học vấn, người ham làm việc TRÍ lại hoá ra người KHÔN XẰNG vì thiếu xét đoán, người chuộng điều TÍN lại thành người làm GIẶC, người TRỰC lại thành người GIAN GIẢO, người DŨNG thành người LOẠN, người CƯƠNG CƯỜNG thành người LIỀU… (Hiếu nhân bất hiếu học, kỳ tế giả ngu; hiếu trí bất hiếu học, kỳ tế giả đãng; hiếu tín bất hiếu học, kỳ tế giả tặc; hiếu trực bất hiếu học, kỳ tế giả giảo; hiếu dũng bất hiếu học, kỳ tế giả loạn; hiếu cương bất hiếu học, kỳ tế giả cuồng – Luận ngữ).
Xác định vai trò học vấn như vậy nên Khổng tử đòi hỏi phải học không ngừng (học nhi bất yểm) và theo phương châm mỗi ngày phải mới không ngừng (nhật tân, nhật tân, hựu nhật tân).
2. Nhưng học thế nào cho có kết quả?
Theo Khổng tử, học trước hết phải có tinh thần thực sự cầu thị và kiên trì mãi mãi ( trì chi dĩ hằng); học là để ứng dụng (học dĩ tri dụng). Về mặt phương pháp, Khổng tử yêu cầu học phải kết hợp với độc lập suy nghĩ (học tư kết hợp), vì học mà không suy nghĩ, học vẹt thì cũng như không, ngược lại, mãi đắn đo suy nghĩ mà không thực học thì cũng vô ích, lắm khi nguy hiểm (học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi). Khổng tử nêu cao phương pháp cụ thể là học phải kết hợp với hành (học nhi thời tập chi), trong quá trình học phải nghe nhiều (đa văn), chỗ còn nghi ngờ phải gác lại (khuyết nghi), chỉ nói và làm những điều mình đã thực sự nắm vững, cũng không nên thiếu sự thận trọng (thận ngôn kỳ dư).
Đó cũng là yêu cầu kết hợp song hành bổ túc giữa Trí dục với Đức dục và về cơ bản là hữu hiệu và phù hợp với quy luật khách quan.
3. Thế còn đối với người dạy?
Khổng tử đặt lên hàng đầu là nhân cách và đạo đức của người dạy. Ông quan niệm sự làm gương quan trọng hơn lời giảng (Thân giáo trọng ư ngôn giáo) và người dạy phải có tinh thần dạy không biết mệt mỏi, chán nản (Hối nhân bất quyện). Về mặt phương pháp, người dạy phải biết tuỳ theo đối tượng (nhân tài thi giáo), phải biết hướng dẫn, khơi gợi, mở mang (dụ đạo khái quát). Ông cô gọn lại những điểm cơ bản của con đường đào luyện như sau:
- Bác học: Người dạy phải thu nhận học trò rộng rãi, chọn người tốt để đào tạo cho học trò đạt trình độ uyên bác, thực học
- Thẩm vấn: Thông qua thẩm xét, hỏi han để bồi dưỡng cho học trò
- Thận tư: Giúp học trò suy nghĩ cẩn thận để ngày một nâng cao nhận thức, đạt trí
- Minh biện: Giúp học trò có năng lực phán đoán, tự mình suy nghĩ, rút ra kết luận, không bị dao động bởi dư luận
- Đốc hành: Đốc thúc học trò hành động, cốt ở học là hành
Có thể nói đó là những bước tuần tự của con đường bồi dưỡng trí năng và năng lực thực tiễn cho người học, đòi hỏi rất nhiều ở nhân cách và năng lực của người thầy.
*
* *
Tư tưởng giáo dục của Khổng tử khá phong phú, chuộng thực tiễn, khác hẳn quan niệm và mục đích dạy của nhiều hậu nho và sĩ tử về sau.
Trên đây chỉ là những điểm cơ bản, nêu ra có tính tham khảo. Điều có thể khẳng định được là, lần đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa và khá sớm trong lịch sử nhân loại, Khổng tử đã vạch ra được những quy luật khách quan của quá trình dạy – học mà ngày nay chưa phải đã cạn hết ý nghĩa.
Nguồn: Tạp chí Khoa học và Phát triển - 1993