Không gian được tạo nên bằng sự sắp đặt của các cột kèo, của các khoảng để trống và chỗ đóng kín (cũng như sự phân bố các nhà trong một tổng thể), phải đáp ứng những nhu cầu về chức năng và trước hết là những đòi hỏi cơ bản: phải phù hợp với các lực lượng tự nhiên của vũ trụ và các thế lực siêu nhiên.
Về góc độ bình đồ.
Xét về bình đồ dưới sự soi sáng của các sách kinh điển còn truyền lại đến ngày nay, ta có thể suy luận ra những ý tưởng chính của kiến trúc, tìm thấy những nguyên tắc lớn của cuộc sống, vạch lại con đường đi của những người dựng nên các khái niệm từ khi đặt viên đá đầu tiên hay dựng cây cột đầu tiên.
Điều mong muốn của nhà kiến trúc là qua cái hoàn thiện của hình học, tìm thấy một bình đồ lý tưởng, để cho nhựa sống của thần linh dâng lên qua các cột đến tận nóc nhà. Như vậy chu trình trao đổi giữa Trời và Đất được thiết lập.
Bình đồ lúc khởi thủy là một hình ảnh của qui luật vũ trụ. Tất cả các thế lực của vũ trụ đều được sắp xếp có trật tự. Sự hòa nhập của ngôi nhà vào một cảnh quan đẹp không phải là điều quan tâm duy nhất của những nhà kiến trúc đầu tiên. Mối quan tâm của họ là được thần linh bảo hộ và có thể đẩy lùi những thế lực đen tối.
"Gắn vào" thiên nhiên, nằm trong trật tự của thiên nhiên hay làm tôn thêm thiên nhiên, đó là những mục tiêu mà ngôi đền hay chùa Nhật Bản phải đạt được. Nếu như người Nhật biết đưa cá tính sáng tạo vào kiến trúc, thì họ cũng biết tiếp nhận hơi thở của nước ngoài vào thời kỳ mà con người đã xây dựng nên những nền văn minh trên thế giới.
"Hướng" một ngôi nhà về phía nam (hay đông-nam) là đón nhận ánh sáng từ thiên đỉnh, đấy là nguồn hơi ấm và lửa, biểu tượng của sự sống và sự hủy diệt. Biểu tượng của ánh sáng là nguồn hồi sinh vô tận, ngôi nhà phải tắm mình trong cái khí của Mặt trời. Các điểm hạ chí, đông chí, xuân phân, thu phân và vị trí các tinh tú ở vào thời điểm nhất định đã tạo nên những đơn vị cơ bản của nông nghiệp.
Bằng quan sát tuyết tan, nước lũ, gió mùa, người ta có thể đoán trước các mùa. Dựng lên một dãy cự thạch thành hàng, vạch lên những phương hướng trên mặt đất, hay dựng một ngôi đền là biểu hiện sự tôn sùng đối với vị chúa tể cần thiết cho nhân loại: Mặt trời. Và nếu như tận cùng của ngôi đền tỏa hào quang khi mặt trời mọc, là muốn nói rõ rằng vượt lên trên tất cả, qua tất cả mọi thần linh, có Mặt trời.
Ta nhận thấy những tư tưởng truyền từ đời này sang đời khác, mang tính bói toán và thiêng liêng, được tích tụ từ thuở mở đầu của thế giới, tuy rất xa lạ với kỹ thuật kiến trúc, vẫn không ngừng ảnh hưởng đến hình thức của kiến trúc, dẫn dắt từng bước người xây dựng. Trước hết đấy là những nỗi sợ hãi, những điều mê tín, thuật bói toán, thuật phong thủy, thuật chiêm tinh và nhất là những điều kiêng kỵ gắn với điều bí ẩn lớn nhất: cái Chết.
Biểu tượng của tang lễ
Trong phần lớn các tộc người nguyên thủy hay cổ đại, nhà mồ thường có qui mô lớn hơn và phức tạp hơn nơi cư ngụ của người sống, đấy là một nhận xét rất có ý nghĩa. Và trong mọi ngôi nhà, luôn được dành một không gian dự phòng khi cần thiết, để thực hiện các nghi lễ tang ma. Trong một số bộ tộc Bắc Á, một cái cửa ở phía đông-bắc hay một cái lỗ trổ trên nóc chẳng hạn, tương ứng với phương hướng để đưa người chết hay linh hồn họ ra khỏi nhà. Ngoài ra ta còn hay thấy ở những vùng rất xa như Bắc Mỹ và Trung Quốc, người ta có thói quen cắm xuống đất hai cái cột đánh dấu không gian làm tang lễ, đó là không gian thiêng. Những cái cột đó, có khi là hai cái cây trồng tự nhiên, được treo những biểu tượng, dải băng, lục lạc hay vật hiến sinh để giúp linh hồn người chết đi từ thế giới người sống sang thế giới người chết (trên trời hay dưới đất). Lại còn phải chỉ đúng đường đi cho cuộc hành trình lớn đó. Cái cột, mô đất, hòn cự thạch hay dàn lễ tang đều xếp hàng theo đúng hướng, thường là hướng bắc-nam: trong trường hợp đó vật cúng tế được đặt ở phía nam. Không gian người chết và không gian thiêng được hòa lẫn trong cùng ý nghĩa đó, đến nỗi về sau người ta quên mất nguồn gốc tang ma của sự sắp xếp để chỉ còn thấy một biểu tượng trang trọng.
Những con số thiêng.
Dãy số 3 vẫn là cơ sở của xây dựng. Đó là không gian giới hạn giữa hai cột, tạo thành ba nhân tố, cái cửa có nghĩa là lối đi từ thế giới này sang thế giới khác. Cái cổng torii Nhật Bản, đánh dấu lối vào chốn thiêng liêng, ngoài những giả thuyết về hình dáng đặc biệt của nó, là ví dụ nổi bật nhất về hệ thống đó. Vườn Nhật Bản cũng theo nguyên lý sắp hàng 3; ao hồ cũng có ở giữa một hòn đảo và trên mỗi bờ ao đều có một cái cổng, một ngôi nhà hay một cái cầu. Tại đền Ise, ngôi đền xưa nhất Nhật Bản dựng theo kiến trúc thuần túy của Shinto (Thần đạo), có hai cây cột bên ngoài, một ở hướng bắc, một ở hướng nam, cũng là một biểu hiện khác. Trong những ngôi chùa Phật giáo Nhật Bản đầu tiên, ngôi "chùa ngoài" nằm phía trước và phía sau là "chùa trong" đặt tượng Phật, toàn bộ được xây tường bao bọc. Theo nguyên tắc như vậy, các ngôi làng Nhật Bản xưa cũng sắp xếp quanh một con đường thẳng trung tâm, giới hạn lối vào và lối ra bằng hai mô đất đắp theo trục; ở Triều Tiên, hai cột vật tổ đánh dấu vị trí đó.
Cái quan niệm theo đường thẳng về không gian thiêng đó sẽ được củng cố thêm bằng hai cây cột phụ hình dung bốn hướng, bốn phương trời của toàn vũ trụ, thu hút vào trong không gian được giới hạn sự che chở của các thần linh tự nhiên và xua đuổi các tà ma. Đền chủ yếu là không gian đó được đánh dấu bằng một giới hạn: một rừng cây thưa trong rừng, một khoảng trống đánh dấu bằng đá, một không gian có chăng dây hay trồng cột đá, luôn luôn hướng theo các phương trời. Khuôn viên tứ giác (hành lang và hiên) của các đền và miếu chỉ là sự phát triển của "giới hạn" khởi nguyên đó. Trong không gian có ý nghĩa đó, nơi thánh thiện, người ta cử hành các điệu múa và làm lễ cầu đảo, cúng gạo mới, lúa mì mới hay ngô mới. Khi người ta muốn trùm lên một cái tán để cho thiêng liêng hơn hay để mời các thần linh đến ngự, thì họ dựng lên ở giữa một cái đài, đầu tiên là một nơi cư ngụ làm bằng bốn cái cọc nối đầu với nhau và phủ da hay lá lên trên như những cái lều làm lễ nhập môn, rồi sau đấy biến thành một ngôi nhà thần thánh thật sự: ngôi đền.
Con số 4 trở thành cơ sở của một trò chơi trừu tượng hơn của các con số mà ta thường thấy xuất hiện trong kiến trúc: đền Ise gồm có 4 ngôi nhà hình tứ giác; ngôi nhà Trung Quốc cổ có 4 nhà quây quanh sân trung tâm; người ta bước lên nơi thờ Phật bằng 4 bậc cấp; các ngôi chùa thường có 4 cạnh, cũng như các Kim tự tháp của Ai Cập hay của Nam Mỹ. Nhiều thành phố cổ đại được giới hạn bằng việc ném 4 hòn đá về bốn hướng. Vì Thành phố, Cung điện, Đền miếu, Nhà, Người đều có chung một đơn vị. Trường An kinh đô Trung Quốc đời nhà Đường, được xây dựng theo một bình đồ hình vuông và được lấy làm mẫu mực cho việc xây dựng các thành phố Nhật Bản từ Nara đến Kyoto! Nếu con số 4 là điềm lành về mặt vũ trụ, thì nó cũng là điềm gở ở Nhật Bản, vì chữ "tứ" cũng đọc giống như chữ "tử" (chết). Vì vậy khi làm nhà người ta tránh không làm các gian phòng có diện tích của 4 cái chiếu (tatami) mà bao giờ cũng làm một phòng bằng bốn chiếu rưỡi. Trong lĩnh vực tín ngưỡng, điềm gở gắn theo con số đó tự nhiên có ảnh hưởng đến sự thiêng liêng của nơi chốn đó. Những bội số của con số 4 cũng có những chức năng như vậy, và tùy theo sự phân chia không gian giữa hai hướng thành hai hay ba, người ta sẽ có 8 hay 12 con số thiêng mới. Và 12 là con số phân chia năm thành 12 Con Giáp.
Những con số lẻ khác cũng được sử dụng rộng rãi trong kiến trúc: 3, 5, 7, 9. Ngoài sự sắp hàng thiêng liêng hay quan hệ theo hướng thẳng đứng giữa Địa-Nhân-Thiên, số 3 là không gian được hoạch định bằng bốn cái cột dàn hàng ngang trước mặt tiền, cơ sở của mọi ngôi đền nhỏ ở Nhật Bản. Số 5 biểu trưng cho bốn hướng và trung tâm: đó cũng là con số của ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Và đạt đến một trình độ liên hệ cao hơn, người ta đã đi đến gắn ngũ hành với các tinh tú: Kim tinh, Mộc tinh, Thủy tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh(1). Phát triển hơn nữa, con số 5 còn mở rộng đến ngũ uẩn của Phật giáo, năm cái trụ của Hồi giáo, năm chiếc xe ngựa bay của Bà La Môn giáo, và "năm ngôi đền Thiền"...
Để đạt đến số 7, chỉ cần thêm vào hai tinh cầu chủ yếu là Mặt Trời và Mặt Trăng (đó là nước và lửa, dương và âm, biểu trưng của vũ trụ lưỡng hợp). Còn con số 9 có được bằng việc cộng vào bốn hướng với bốn phương trung gian (đông-bắc, đông-nam, tây-bắc, tây-nam) và trung tâm (trên mặt Đất), hay hình dung "chín tầng trời" (cửu trùng) của thế giới bên trên. Chớ quên rằng con người có cửu khiếu, chín lỗ thoát.
Tất cả những con số đó đều có liên hệ chặt chẽ với tinh tú. Lúc khởi nguyên, ngôi đền là nơi quan sát và là nơi bói toán bằng nước, có mặt ở khắp nơi tên thế giới. Cái sân trung tâm của ngôi nhà, của cung điện, của ngôi đền Trung Hoa đều được gọi là "giếng Trời", và cái giếng trong một ngôi nhà không phải chỉ là nơi cung cấp nước. Đấy chính là nơi bầu trời phản chiếu. Ngược lại, đài khâm thiên Quang Giu ở Triều Tiên, nơi người ta quan sát thiên văn qua ánh sao phản chiếu trên mặt nước, gồm có trong cấu trúc của nó nhiều yếu tố cấu thành ngôi nhà. Cái giếng rửa tay chân thêm vào khái niệm đó ý nghĩa tẩy trần và cái sân giữa đền cuối cùng đã hấp thu mối liên hệ với các tinh tú cũng như sự cần thiết phải tẩy uế khi bước vào. Ngoài ra, cái gương Thần đạo là biểu hiện hình ảnh thực sự và hình dung của nữ thần mặt trời Amaterasu, và bản thân nó có nghĩa là ngôi đền.
Tất nhiên không thể giải thích mọi kiến trúc bằng sự suy luận về con số vì nó sẽ đưa đến sự mê tín hoàn toàn. Nhưng chúng ta phải thấy các hình dáng hình học đơn giản hay sự phân chia của nó có quá nhiều ở khắp nơi trên thế giới, khiến nó trở thành các hằng số của kiến trúc và những biểu đồ của nó trở thành những công cụ đầu tiên: nó quyết định các tỉ lệ.
Các hình ảnh thiêng.
Giống như các con số thiêng, những hình ảnh thiêng làm phong phú thêm ý nghĩa của kiến trúc. Từ rất sớm, ý tưởng về núi và đền miếu đã đi liền với nhau; ở Nhật Bản, sự đồng nhất đó được nhận thấy đầu tiên ở các kofun, những ngôi mộ đắp thành ngọn núi, và nhờ vào chiều cao đó mà thu hút sự quan tâm của trời đối với người đã khuất. Hơn nữa, núi là nơi được coi là nơi cư ngụ của nhiều thần linh, vì vậy nó trở thành chốn linh thiêng. Để giữ cái ý nghĩa thiêng liêng đó, những ngôi đền dựng giữa đồng bằng, như năm ngôi đền Thiền của Kamakura ở Kyôto được gọi là Gozan (Ngũ sơn), đồng nhất với "Ngũ lĩnh" năm ngọn núi thiêng của Trung Quốc, nhằm đề cao sự linh thiêng của ngôi đền.
Một đề tài cực kỳ quan trọng nữa trong kiến trúc thế giới là sự hình dung trục vũ trụ. Tất cả các thần thoại đều có nhu cầu dựng lên giữa thế giới mặt đất một cái cột hay một cái cây thiêng, mà xung quanh nó vũ trụ sẽ được dựng nên. Mọc lên từ mặt Đất, nó lên đến tận Trời, nó là lời của Chúa nối liền thần linh với con người. Thần thoại Nhật Bản không thoát khỏi khái niệm đó. Sau khi sáng tạo nên những hòn đảo Nhật Bản, các thần linh đầu tiên còn hiện hữu. Đàn ông và Đàn bà trồng trên hòn đảo đầu tiên một cây cột xung quanh đó các dân tộc tụ họp để sống trên mặt đất. Lần thứ nhất, họ đi vòng quanh cột từ phải sang và chỉ sáng tạo nên những vật xấu; lần thứ hai họ đi vòng từ trái và sự kết hợp của họ sinh ra những thần linh tuyệt vời. Cây cột đó hoàn toàn giống cái cây của vườn địa đàng, cái cây nối liền giữa Adam và Eva, biểu tượng lưỡng hợp của cái thiện và cái ác.
Trong Shintô không có một vật gì mà lại ngăn cách với thế giới trần tục. Ngược lại thế giới loài người được sáng tạo quanh nó theo ý chí tối linh mặc dầu không gian được tôn vinh trước hết là mối liên hệ thẳng đứng với Trời. Các thần linh Shintô gọi là kami, cư ngụ ở một thế giới riêng. Thế giới thứ nhất ở trên trời và sáng láng, gồm những thần linh khởi nguyên. Những kami tối cao đó cai quản mọi linh hồn của các sinh vật sống dưới trần thế tối tăm. Mối dây liên hệ giữa hai "thế giới" đó là những ngọn núi cao, những cây lớn và mọi vật thể thẳng đứng giống như cái cây, chẳng hạn cây cột chính một ngôi đền hay một ngôi nhà. Để chỉ rõ tính chất thiêng liêng của những vật trung gian giữa thần và người đó, người ta đánh dấu bằng một biểu trưng hay buộc quanh một sợi dây tỏ ý kiêng kỵ. Người ta cũng cắm một cái cọc lên đỉnh nấm mồ của những hoàng đế Nhật Bản đầu tiên. Tập quán dựng những cột thẳng đứng đó vẫn còn tồn tại ở một số đền đài như ở đền Suwa (quận Nagano), người ta dựng trong bốn gian phòng của tổng thể kiến trúc mỗi nơi một cái cột. Những cái cột thô sơ đó làm bằng thân cây bóc vỏ được thay thế bảy năm một lần với một lễ long trọng.
Giống như lúc khởi thủy, "Nhà Kiến trúc vĩ đại" (tức Thượng đế) đã sử dụng trục vũ trụ, nhà kiến trúc trần thế cũng dùng cột đồng hồ mặt trời để phân định khu vực xây dựng. Cái cột đồng hồ đó là sự thu nhỏ cây cột vũ trụ của con người, chiếu bóng đen xuống mặt đất, đánh dấu các hướng của không gian, đánh dấu bốn phương trời, mà thời gian và giờ giấc đã trải qua. Người Chalđê dùng nó đầu tiên để tính toán giờ giấc, nhưng trước họ người ở Stonehenge đã sử dụng để xác định vị trí mỗi hòn cự thạch trên hành tinh.
Một khi không gian được san bằng như "mặt nước", người xây dựng vạch một vòng tròn lấy cột đồng hồ làm trung tâm, họ đánh dấu theo bóng cây cột, phương đông và phương tây lúc mặt trời mọc và lúc mặt trời lặn. Như vậy người ta đã có chính xác bốn phương và các hướng, sau khi đã điều chỉnh sự thay đổi của trục tùy theo tháng. Trên nguyên tắc, cột đồng hồ chỉ định rõ ràng hướng của cột Shinto: một mối liên hệ thẳng đứng và chiếm lĩnh di chỉ trong không gian bằng phẳng.
Trong kiến trúc Phật giáo, mỗi lần người ta xác định một trung tâm (sân, giếng hay bàn thờ), cái trung tâm đó không phải chỉ là một vị trí hình học, mà là nơi dựng tưởng tượng của cây cột hay của mặt đất mà nó phải dựa vào. Trong những trường hợp khác, trục được hình dung một cách có ý nghĩa hơn: lúc đó là cây cột mặt trời của người da đỏ Sioux, cái tháp (stupa) của người Ấn Độ, cột tháp của người Ai Cập, cột vật tổ saman của các làng Triều Tiên, ngôi chùa của người Trung Hoa hay Nhật Bản, hay một pho tượng khổng lồ trở thành trung tâm qui chiếu.
Việc phá hủy và dựng lại thường xuyên những ngôi đền Shinto gắn với ý nghĩa biểu tượng của trục đó, được quan niệm trong ý nghĩa lưỡng phân giữa Sống-Chết. Đấy là bản chất hồi sinh thường xuyên theo mùa, là vòng luân hồi của linh hồn Phật giáo, như truyền thuyết giải thích sự lớn lên của đứa con bằng sự giảm thiểu từ từ hoạt động của người cha, việc dựng lại ngôi đền thuộc vào chu kỳ lớn khiến cho nó bảo tồn được sự tinh khiết. Ngôi đền cũ bị tháo dỡ hoàn toàn được dùng làm bùa thiêng, còn ngôi đền mới được hồi sinh càng thêm tinh khiết.
Nhà kiến trúc vừa là người thực hiện vừa là một bậc thầy, vì họ chia sẻ sự hanh thông với thần linh cũng như với con người. Việc chọn địa điểm xây dựng, nơi khai thác gỗ đá xây dựng, việc tuân thủ mọi kiêng kỵ và mọi đòi hỏi bảo đảm tương lai của công trình, việc chiếm dụng địa điểm được sự đồng thuận của thần linh bốn phương, việc di dời những thần linh cũ đã cư ngụ ở đó và tiếp đón những thần linh mới đến, tất cả những nhiệm vụ đó đều thuộc về nhà kiến trúc Nhật Bản. Và nếu như ngày nay việc làm đó được một vị pháp sư thay thế, sự có mặt của nhà kiến trúc trong buổi lễ là không thể thiếu được. Một trong những nghi thức thú vị nhất là vãi vài hạt cây mọc nhanh trên nền đất sắp xây dựng, để cho công trình có thể mọc nhanh không có trở ngại. Sau khi hoàn thành nghi thức đó, mới có thể đặt viên đá đầu tiên hay dựng chiếc cột đầu tiên./.
_________
1. Tên gọi các tinh tú theo ngũ hành có khi không đồng nhất với tên gọi theo khoa học, vì vậy chúng tôi chú thích tiếng Pháp theo thứ tự trên là: Vénus, Jupiter, Mercure, Mars, Saturne.
Nguồn: Phương Duyên(st)