2. Rồng trong lịch sử văn hóa Trung Hoa xuất hiện cách đây hơn 8000 năm(2). Nó là con vật thiêng do người nguyên thủy sáng tạo ra, qua thời gian hình tượng của nó không ngừng thay đổi. Các di chỉ khảo cổ có từ thời kì đồ đá cũ và mới được tìm thấy ở khắp lãnh thổ Trung Hoa đã cho thấy hình tượng rồng trong văn hóa nguyên thủy Trung Hoa đã thể hiện tính đa nguyên ở từng địa phương khác nhau. Lịch sử tồn tại nhiều bộ lạc nguyên thủy trên lãnh thổ Trung Hoa đã sáng tạo ra nhiều chủng loại rồng nguyên thủy khác nhau về hình dáng lẫn con vật gốc. Trong lịch sử nghiên cứu rồng Trung Hoa, nhiều học giả thuộc các trường phái khác nhau đưa ra những vật khác nhau làm nguyên mẫu cho rồng. Thời kì xã hội phong kiến, dân gian Trung Hoa rất quen thuộc với khái niệm “tam đình cửu tự” khi nói về hình dáng và nguồn gốc của rồng. “Tam đình” bao gồm: phần đầu, phần thân, phần đuôi. “Cửu tự” có nhiều cách giải thích khác nhau. La Nguyện đời Tống là người đề xuất giải mã khái niệm “cửu tự” sớm nhất, gồm: sừng giống nai, đầu gống đà, mắt giống thỏ, thân giống rắn, bụng giống trai, vảy giống cá, ngón chân giống chim, chân giống hổ, tai giống bò [xem 2]. Lý Thời Trân đời Minh trong tác phẩm Bản Thảo Cương Mục bổ sung yếu tố vảy giống loài cá chép, trên thân có tổng cổng 81 vảy (= 9x9), miệng có râu…. Bắt đầu từ quan niệm này, các học giả nghiên cứu về rồng ở Trung Hoa đi sâu phân tính các yếu tố hình dáng, đặc tính của rồng để truy tìm nguồn gốc, và để trả lời câu hỏi nguyên mẫu của rồng là gì. Dưới đây là một số xu hướng chính tại Trung Hoa được tổng hợp qua các tác phẩm của các tác giả Vương Duy Đề, 2000; Hạo Xuân, 1999; Ngụy Á Nam, 1986:
- Thứ nhất là xu hướng cho rằng nguyên mẫu của rồng là rắn. Người đứng đầu là học giả Văn Nhất Đa – một chuyên gia nghiên cứu về rồng rất nổi tiếng ở Trung Hoa. Về thuyết “tam đình cửu tự”, Văn Nhất Đa nói “không cần chú trọng từng bộ phận của rồng giống gì, giống ngựa cũng được, giống chó cũng được,… nhưng thân chính và hình thái của rồng là rắn”. Tiếp theo Văn Nhất Đa là các học giả Tôn Tác Vân, Lưu Quách Nguyên, Vương Xương Chính, Hà Tinh Lượng, Vương Duy Đề, Trần Thụ Tường, Ngụy Á Nam v.v…(3) dựa vào các kết quả nghiên cứu của khảo cổ học và sử học đưa ra lập luận riêng của mình để chứng minh nguyên mẫu của rồng là rắn. Tôn Tác Vân cho rằng rồng là sự thần thánh hóa hình ảnh con rắn trong tự nhiên, theo đó, thời cổ đại ở Trung Hoa có nhiều thị tộc sùng bái các vật tổ khác nhau, song thị tộc Thái Hạo thị sùng bái rồng là mạnh nhất. Vương Xương Chính cho rằng rồng có tính thần bí lớn, do phương bắc gần gũi với ngựa nên sáng tạo cho rồng các đặc tính của ngựa, còn ở phương nam sông nước lại thêm vảy, thêm râu cho rồng, song thân chính của rồng vẫn là rắn”. Theo thống kê của một số học giả như Vương Duy Đề, Lưu Quách Nguyên thì tổng số các tác giả có nghiên cứu về nguồn gốc của rồng cho nguyên mẫu của rồng là rắn chiếm tỷ lệ hơn 50% trên tổng số.
- Xu hướng cơ bản thứ hai là coi nguyên mẫu của rồng là cá sấu. Các học giả theo trường phái này coi rồng là sản phẩm sáng tạo của người phương nam sông nước, do cá sấu chỉ sinh sống ở vùng sông nước mà thôi. Học giả Chu Bản Hùng cho rằng cá sấu sông Dương Tử chính là nguyên mẫu của rồng bằng cách so sánh các yếu tố da sần sùi, miệng to, răng nhọn, thân dài, thích nước của rồng và cá sấu [xem hình 2]. Học giả Vương Đại Hữu thì cho rằng rồng có nguyên mẫu là loài cá sấu loan ngạc (cá sấu sống ở đầm). Học giả Hứa Tiến Hùng cũng có quan niệm tương tự.
- Thứ ba là xu hướng cho rằng nguyên mẫu của rồng cá. Nổi bật là các học giả Đoàn Tư Viêm, Lý Bạch Phụng. Các học giả này chủ yếu dựa vào các tư liệu khảo cổ học được hát hiện tại vùng lưu vực sông Hoàng hà (các sản phẩm đất nung mang hoa văn hình long ngư) và các tư liệu lịch sử học như Nhi Nhã, Sơn Hải Kinh… Cũng theo các tác giả này, cá lăng(4) và cá chép là hai loài cá có thể đã đóng góp nhiều nhất trong việc hình thành rồng. Do vậy, dân gian thường có câu “cá chép vượt vũ môn hóa rồng”.
- Thứ tư là quan điểm cho rằng nguyên mẫu của rồng là lợn. Đại diện cho trường phái này là các học giả Tôn Thủ Đạo, Quách Đại Thuận. Các tác giả này cho rằng nguồn gốc xuất phát rồng là từ nền văn hóa Hồng Sơn vùng đông bắc Trung Hoa, có niên đại vào khoảng trung kì hay mạt kì của thời đại văn hóa Ngưỡng Thiều. Tại khu vực này nhiều di chỉ khảo cổ có liên quan đến rồng đã được phát hiện, trong đó nhiều nhất là các con ngọc long hình rồng đầu lợn [xem hình 4(5)]. Tuy vậy, các học giả Vương Duy Đề, Ngụy Á Nam… cho rằng chủ nhân của nền văn hóa Hồng Sơn nói trên là hậu duệ của những bộ lạc Chuyên Húc, Cộng Công di cư từ vùng thượng nguồn sông Hoàng Hà đến. Theo các ông, chính các di dân này đã mang theo con rồng nguyên thủy từ vùng Trung nguyên đến đó, rồi kết hợp với lợn để tạo ra hình ngọc long đầu lợn. Nhìn chung, tuy nguồn gốc thực của các con ngọc long đầu lợn chưa được xác định cụ thể nhưng giới học giả hiện nay coi chúng chỉ là một biến thể địa phương của rồng Trung Hoa mà thôi.
- Quan niệm thứ năm là xu hướng cho nguyên mẫu của rồng là trâu. Đại biểu cho xu hướng này là hai học giả Chung Đào, Dương Xương Quốc. Các học giả này đã đi sâu nghiên cứu rồng của người Miêu(6) và mối tương quan sâu sắc giữa rồng và trâu trong văn hóa người Miêu. Bắt đầu từ các phát hiện ở di chỉ Hoàng Mai ở Hồ Bắc, các học giả này đã cho rằng người Miêu có quan hệ nguồn gốc với tộc Cửu Lê – một thị tộc bị bại trận trong cuộc tranh giành địa vực sinh sống với thị tộc Hoàng Đế ở vùng thượng nguồn sông Hoàng Hà [xem Vương Duy Đề, 2000]. Tuy nhiên, khi xu hướng này được đề xuất, nó đã lập tức bị giới khoa học bác bỏ vì thiếu những căn cứ thuyết phục cơ bản, vì theo họ những đóng góp của trâu vào rồng Trung Hoa ngày nay ít, các tư liệu tìm thấy không nhiều và chưa có tính thuyết phục để khẳng định. Mặt khác, theo chúng tôi, dân tộc Miêu vốn được coi như một trong nhóm Bách Việt phương Nam nên giả thuyết cho rằng người Miêu là hậu duệ của thị tộc Cửu Lê ở phương bắc là không hợp lệ.
- Thứ sáu là xu hướng cho rằng nguyên mẫu của rồng là ngựa. Các nhà khoa học thuộc xu hướng này đã đưa ra rất nhiều những tư liệu sử học và các câu chuyện dân gian để chứng minh lập trường của mình. Theo các học giả này, câu truyện truyền thuyết vua Phục Hy nhìn thấy con Long mã trên sông mà làm ra Hà đồ, các hình vẽ Phục Hy – Nữ Oa cùng với con ngựa có cánh, chiếc móc treo chuông hình rồng đầu ngựa [xem hình 5], các hình vẽ rồng dáng ngựa [xem hình 6]… đã tạo cơ sở cho giả thuyết nguyên mẫu của rồng là ngựa. Tuy nhiên, theo nhiều học giả khác, đó cũng chỉ là xu hướng nhỏ trong tổng quan các quan điểm về nguyên mẫu của rồng Trung Hoa mà thôi.
- Xu hướng thứ bảy là xu hướng cho nguyên mẫu của rồng là hổ. Thời cổ đại, người nguyên thủy tôn sùng hổ vì hổ là vua của muôn thú, có sức mạnh thần kì. Cùng với các thế lực thiên nhiên khác, hổ tác động đến sự sinh tồn và phát triển của loài người, khiến cho con người dần dà hình thành tục lệ sùng bái vật tổ. Hổ trở thành vật tổ, trở thành biểu tượng của một số thị tộc. Qua thời gian tồn tại và phát triển, hổ đã được gắn thêm vào một số các yếu tố siêu nhiên, đồng thời vay mượn thêm yếu tố cấu tạo hình dáng của các loại vật khác mà tạo thành rồng [xem hình 7]. Các học giả thuộc xu hướng này giải thích rằng tính hung hãn, sức mạnh và sự uy linh của rồng hiện nay chính là phần đóng góp cơ bản của hổ. Tuy nhiên, khi giả thuyết này được đề xuất, các học giả nghiên cứu cùng vấn đề đã đưa ra rất nhiều tranh cãi, cuối cùng thống nhất rằng hổ chỉ là một trong những loài vật có đóng góp vào quá trình hình thành rồng mà thôi.
- Thứ tám là xu hướng cho rằng nguyên mẫu của rồng là chó. Đây là kết luận của một nhóm các nhà nghiên cứu khảo cổ học và dân tộc học sau khi nghiên cứu văn hóa nguyên thủy của các dân tộc Dao, Xá(7) ở phương nam. Các học giả này phát hiện rằng các dân tộc Xá, Dao.. phương nam là các dân tộc sùng bái chó, qua quá trình ứng xử với môi trường tự nhiên, họ đã tạo ra rồng từ hình ảnh ban đầu của một con chó [xem hình 8]. Tuy vậy, theo Vương Duy Đề thì dân tộc Xá thời nguyên thủy chính là Cao Tân thị, coi tổ tiên là Bàn Hồ thần (chó thần), trong lịch sử đã di chuyển từ khu vực núi Thái Sơn (tỉnh Sơn Đông ngày nay) xuống phía nam, đã mang theo hình ảnh rồng nguyên thủy phương bắc xuống phương nam tạo ra rồng chó(8). Cho đến nay, xu hương này vẫn chỉ là một khuynh hướng nhỏ ít được các nhà khoa học chú ý bởi tính thuyết phục kém của nó.
- Thứ chín là xu hướng coi rồng có nguyên mẫu là từ tia chớp của sấm sét và cầu vồng(9). Đại diện cho trường phái này là học giả Chu Thiên Thuận, Hồ Xương Kiện. Theo Chu Thiên Thuận, khi sấm sét nổi lên, các tia chớp biến hóa vô cùng, song khi quan sát sẽ dễ dàng nhận ra hình dáng uốn khúc quanh co, kì bí của nó. Từ đó người nguyên thủy thần thánh hóa các tia chớp và sáng tạo ra vật linh cai quản các hiện tượng tự nhiên này, đó chính là rồng. Ở một phương diện khác, Hồ Xương Kiện lại cho rằng hình dáng cong cong của cầu vồng xuất hiện trên trời chính là hình ảnh rồng đang hút nước và ban phát cho nhân loại. Trên thực tế, do cầu vồng xuất hiện trong lúc có mây đen hoặc đang mưa nên người nguyên thủy coi cầu vồng là hóa thân của rồng, từ đó sáng tạo ra rồng trên cơ sở vay mượn các yếu tố hình dáng của các loài vật và hiện tượng trong tự nhiên khác. Theo các tác giả, do vì rồng được sáng tạo ra từ sấm sét và cầu vồng nên rồng luôn gắn liền với nước, với mưa, và vì thế người nông nghiệp tế rồng cầu mưa. Tuy vậy, đại đa số các nhà nghiên cứu về rồng không đồng ý với quan điểm này.
- Xu hướng thứ mười là xu hướng cho rằng nguyên mẫu của rồng là cây tùng. Đại biểu là học giả Vinh Phương. Theo ông, trong giới thực vật, cây tùng là vua của muôn loài cây cối, có sức dẻo dai khi tồn tại trong tự nhiên (chịu lạnh), có dáng vẻ huyền bí. Dân gian coi tùng, trúc và mai là ba người bạn mùa đông (tuế hàn tam hữu). Từ các đặc điểm đặc biệt về hình dáng và tính năng của cây tùng, học giả Vinh Phương cho rằng có lẽ nguyên mẫu của rồng là cây tùng.
- Cuối cùng là xu hướng cho nguyên mẫu của rồng là sinh thực khí nam. Đại biểu cho xu hướng này là Tấn Học Vương. Ông cho rằng quẻ càn trong Chu Dịch là quẻ rồng, vốn tượng trưng cho sinh thực khí nam. Hơn nữa, hình ảnh rồng hiện nay cũng có tính dương (so với phụng), nếu xét riêng từng đặc tính của rồng như bay giỏi, chạy nhanh, giỏi biến hóa, thông thiên… thì có thể nói rồng là một tập hợp của nhiều đặc tính dương tạo thành. Từ đó, học giả này cho rằng người nguyên thủy kết hợp các yếu tố hình dáng của nhiều loài vật hiện tượng lại để tạo ra hình ảnh cho tập hợp nhiều tính dương này. Đó chính là con rồng ngày nay.
Nói tóm lại, cho đến hiện nay vấn đề nguyên mẫu của rồng đã gây sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Qua quá trình truy tìm nguồn gốc của rồng, giới học giả Trung Hoa đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau. Trong số các giả thuyết ấy, xu hướng cho nguyên mẫu của rồng là rắn là phổ biến nhất.
3. Ngoài hình ảnh ban đầu được tìm thấy ở các tư liệu khảo cổ, hầu như không có hoặc có rất ít tài liệu ghi chép về nguồn gốc của rồng để chứng minh các ý kiến trên, nhưng qua quan sát và ghi nhận của khảo cổ học, lịch sử học, chúng tôi nhận thấy giả thuyết coi nguyên mẫu của rồng là rắn là có tính phổ biến hơn cả. Dưới đây là một số luận điểm được tổng hợp từ các lĩnh vực khảo cổ học, lịch sử học và ngôn ngữ học.
Thứ nhất, cho đến nay, qua các văn vật khảo cổ từ hình vẽ trên vách đá, hình vẽ trên các dụng cụ lao động, hình khắc trên vỏ trai, đá cuội, sành sứ, hình đúc rồng… đều cho thấy hình tượng chung của rồng là rắn. Ví dụ, từ di chỉ Trà Hải huyện Phúc Tân tỉnh Liêu Ninh người ta phát hiện các vật dụng có hình rồng, qua đinh vị thời gian cho thấy di chỉ này có niên đại cách đây khoảng 8000 năm và thuộc nền văn hóa “Tiền Hồng Sơn” ở đông bắc Trung Quốc [xem hình 9]. Tại Nội Mông Cổ, Thiểm Tây người ta cũng phát hiện ra các món đồ đất nung in hình rồng nguyên thủy với hình tượng chung là một con rắn thần có niên đại cách đây từ 7000 đến 8000 năm. Tại chùa Đào tỉnh Sơn Tây, người ta phát hiện hình một con rồng trong tư thế cuộn tròn trên đĩa có niên đại cách đây 4500 năm [xem hình 10]. Ở các mảnh sứ vỡ tìm thấy ở Nhị Lý Đầu có niên đại cách đây trên 4000 năm có in hình rồng một đầu hai thân dáng con rắn [xem hình 11]. Tất cả các phát hiện trên đây đều có niên đại từ 4000 đến 2000 trước công nguyên, tất cả đều cho thấy hình tượng chung ban đầu của rồng là con rắn, hoặc do kết hợp giữa rắn và các con vật khác mà tạo thành.
Thứ hai, về mặt ngôn ngữ, chúng ta cũng có thể tìm thấy những bằng chính đáng tin cậy cho quan hệ rắn – rồng. Trên giáp cốt văn, chữ long được vẽ với hình tượng cơ bản của một con rắn, miệng to, có sừng [xem hình 12]. Ở kim văn, như trên chuông Thiệu, chuông Vương Tôn… theo Vương Duy Đề, cũng cho thấy chữ long về cơ bản cũng có hình dáng là một con rắn. Mặt khác, trong ngôn ngữ Hán, từ “long xà” được hiểu như rồng, nhưng hiếm khi nghe các từ “long ngạc”, “long lộc”, “long quy”… với ý nghĩa tương tự. Thôi Dung trong quyển Giá phá Thổ Phồn biểu đã dùng cụm từ “long xà chi trận” để nói lên sức mạnh của quân nhà Đường. Giới Tử Thôi đời Tần Văn Công đã dùng bài hát “long xà chi ca” để thuyết phục vua ban tước cho mình… Ở một phương diện khác, qua nghiên cứu các ngôn ngữ của một số dân tộc Bách Việt, sự tương quan giữa rắn và rồng cũng có thể được tìm thấy. Trong tiếng Bố Y, chữ long và chữ xà có cách đọc giống nhau, chỉ có điều chữ long đọc kéo dài ra [rắn /ka/, rồng /ka:/]. Người Ba – theo truyền thuyết là truyền nhân của rồng, người A Xương cũng có cách phát âm tương tự. Người Nạp Tây (Naxi) dùng từ long xà để chỉ rắn thần. Theo các câu chuyện thần thoại của người Nạp Tây, rồng khi bị trừng phạt biến thành rắn [xem 3]. Ở ngôn ngữ người Di, người Ngoã cũng có những điểm tương đồng tương tự.
Thứ ba, nhiều tác phẩm lịch sử được ghi chép trong suốt thời kì phong kiến đều cho thấy vật chủ thể của rồng là rắn. Các thư tịch cổ đại đã để lại nhiều tư liệu cho thấy nguồn gốc của rồng là rắn thần hóa. Sách Sơ Học Ký quyển 30 có dẫn Bão Phác Tử: “Có rồng tự nhiên, có con nhộng rắn biến thành” (6). Sách Hậu Hán Thư chương Trương Hoành Liệt Truyện có viết “rắn được gắn vào thần tính, có thể đằng vân, cưỡi gió giống như rồng. Theo học giả Thanh Dụ Giao, người vùng Triều Châu (Quảng Đông) coi rắn màu xanh là thanh long, tôn thờ như thần. Sách Thuật Dị Ký mục truyền thuyết dân gian có ghi “thủy hủy (rắn độc) 500 năm biến thành con giao, giao 1000 năm biến thành rồng, rồng 500 năm biến thành giác long (rồng có sừng), giác long 1000 năm sau biến thành ứng long (rồng có cánh, biết bay)” [xem 3]. Vương Xung trong quyển Luận Hoành có viết “Long hoặc thời tự xà, xà hoặc thời tự long” (rồng có khi là rắn, rắn có khi là rồng), lại nói “long, lân hữu văn, vu xà vi thần, phụng vũ ngũ sắc, vu điểu vi quân” (Rồng, có vảy, là con rắn thần. Chim phụng, có lông ngũ sắc, là vua các loài chim)…
4. Tóm lại, qua các tư liệu liên ngành có liên quan, chúng tôi đã tổng hợp giới thiệu 11 xu hướng khác nhau trong việc nghiên cứu về nguyên mẫu của rồng Trung Hoa, trong đó, xu hướng cho nguyên mẫu của rồng là rắn là phổ biến nhất. Tuy vậy, việc truy tìm nguyên mẫu đích thực của rồng rất phức tạp, đòi hỏi người nghiên cứu phải đi sâu hơn nữa mới có thể đưa ra các quan điểm thuyết phục.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Ứng Toại, 2001, Trung Hoa cát tường đồ, NXH Văn hóa Bắc Kinh.
2. Hạo Xuân - Cao Chiếm Tường, 1999, Long phụng thành tường, NXB Giáo dục Sơn Đông.
3. Nguyễn Ngọc Thơ 2003: Tìm hiểu rồng Trung Hoa, luận văn thạc sỹ.
4. Ngụy Á Nam, 1986, Long phụng đích lai nguyên, Bắc Kinh.
5. Thái Dị An, 1998, Long phụng đồ điển, NXB Mỹ thuật Hà Nam.
6. Tiêu Hồng, 1984, Long dữ viễn cổ đồ đằng, Học báo Đại học Hà Nam.
7. Vương Duy Đề, 1990, Long đích tông tích, NXB Đại Liên.
8. Vương Duy Đề, 2000, Long phụng văn hóa, NXB Cổ tịch Thượng Hải.
9. Vương Đại Hữu, 1988, Long phụng văn hóa nguyên lưu, NXB Mỹ thuật Công nghệ Bắc Kinh.
10. Vương Đại Hữu,1988, Thuyết long – long đích truyền bá, Báo Văn hóa Trung quốc.
11. Website: http://www.tacocity.com.tw/fish2020/0313.html.