0. – Mở lời . Trên Hồn Việt số 22 (04-2009), ông Nguyễn Quảng Tuân đã có bài “ Trả lời ông An Chi về hai chữ gia gia ”, trong đó ông đã nhận xét và phê bình bài “ Cái gia gia chẳng là … cái gì cả” của chúng tôi trên Đương thời số 2 (02-2009). Ông đã nêu hai điểm chủ yếu : 1.– Chúng tôi đã cố tình cắt đi câu viết của Trần Danh Án mà ông đã dẫn ; ý của ông là như thế thì người ta không thấy được lập luận chặt chẽ của ông còn chúng tôi thì sẽ bắt bẻ ông dễ dàng hơn ; 2.– Chúng tôi thừa nhận hai tiếng “quốc quốc” là danh từ mà như thế thì sai vì đây là từ tượng thanh. Tựu trung chỉ có hai điểm như thế nhưng trong khi phản bác chúng tôi, ông Nguyễn Quảng Tuân đã để lộ nhiều chỗ sai về lập luận cũng như về kiến thức. Vì thế nên trong bài này, chúng tôi sẽ phân tích kỹ những chỗ đó để trao đổi với ông cho cùng kỳ lý.
1.– Tại sao chúng tôi lại “cố tình cắt đi” cái câu của Trần Danh Án ? Sở dĩ chúng tôi “cố tình cắt đi” câu của Trần Danh Án mà ông Nguyễn Quảng Tuân đã dẫn là vì chúng tôi nghĩ rằng chỉ cần nhận xét về việc ông trích dẫn Lý Văn Hùng cũng đã đủ để bác bỏ lập luận của ông rồi nhưng nhất là vì muốn tránh cho ông cái đoạn trong đó ông đã phạm một vài cái lỗi quá tệ về cách hiểu tiếng Hán. Còn lần này thì, vì ông đã có ý trách nên chúng tôi xin mạn phép đưa ra.
Trên Hồn Việt số 19 (01-2009), ông Nguyễn Quảng Tuân đã dẫn từ Việt Nam văn chương trích diễm của Lý Văn Hùng bốn câu thơ của Trần Danh Án, nguyên văn chữ Hán như sau : 鷓 鴣 鳴 家 家 – 杜 鵑 啼 國 國 – 國 微 禽 尚 有 國 家 聲 – 孤 臣 對 此 情 可 極. Ai có trình độ Hán ngữ trung bình cũng có thể biết rằng câu thứ ba dư ra chữ quốc 國 ở đầu ( hai câu đầu mỗi câu năm chữ, hai câu sau mỗi câu bảy chữ). Nhưng ông Nguyễn Quảng Tuân cứ để nguyên như thế mà phiên âm : “ Giá cô minh gia gia – Đỗ quyên đề quốc quốc – Quốc vi cầm thượng hữu quốc gia thanh – Cô thần đối thử tình khả cực ”. Ai cũng có thể thấy được chữ “quốc” dư ra đã làm cho cấu trúc của câu “ Quốc vi cầm thượng hữu quốc gia thanh” trục trặc về cú pháp còn ông Nguyễn Quảng Tuân thì cứ để nguyên như thế mà dịch :“Chim cuốc là một giống chim nhỏ có tiếng kêu như ‘quốc’.” Chữ quốc 國 là “nước”, rủi ro bị thừa ra này, lại có thêm cái rủi ro lớn là bị ông Nguyễn Quảng Tuân gán cho cái nghĩa “chim cuốc”. Đây là chuyện hy hữu trong lịch sử dịch thuật.
Thực ra thì tiếng Hán lại gọi loài cuốc hiện có tại Việt Nam là khổ ác điểu, đầy đủ hơn thì là bạch hung khổ ác điểu 白 胸 苦 惡 鳥 , lấy ý từ tiếng Anh white-breasted waterhen (tiếng Pháp là râle à poitrine blanche). Loài này có tên khoa học là Amaurornis phoenicurus. Còn câu thơ của Trần Danh Án thì lại chỉ con giá cô, tức con đa đa, và con đỗ quyên, tức con tu hú, một loài thuộc họ Cuculidae mà tên khoa học là Eudynamys scolopacea (Xin x. ảnh), mà từ nhiều thế kỷ nay, người Việt đã hiểu nhầm là con cuốc. Trần Danh Án nói đến hai giống chim nhỏ (vi cầm) mà còn có (thượng hữu) tiếng kêu liên quan đến nước, đến nhà (quốc gia thanh). Nhưng trong lời dịch của mình, ông Nguyễn Quảng Tuân chỉ nhìn thấy có một con và một thứ tiếng kêu là con cuốc và tiếng “quốc”.Thật là không công bằng chỉ vì một sự hiểu biết không thấu đáo.
Mà chuyện đâu đã dừng lại. Cô thần đối thử tình khả cực mà dịch là “ kẻ cô thần nghe thấy thật đau lòng” (Hồn Việt số 19) thì chẳng đúng chút nào. Nhưng lời dịch trên Hồn Việt số 22 mới càng sai một cách rõ ràng hơn. Ông Nguyễn Quảng Tuân dịch câu này là “kẻ cô thần đối với tình cảnh ấy thực khổ cực trong lòng”. Thực ra, trong câu thơ này, chữ cực 極 không có nghĩa là “khổ cực” mà chữ khả 可 cũng không có nghĩa là “có thể”. Ở đây, cực là “hết”, là “chấm dứt”,v.v.(như bĩ cực thái lai) còn khả thì lại là “bất khả”, nghĩa là “không thể” (Đây là nghĩa thứ 10 của chữ khả 可 trong Hán ngữ đại tự điển (Thành Đô,1993)). Vậy câu này có nghĩa là :Trước cái thực tế đó thì lòng thương nhớ của kẻ cô thần này há có thể vợi đươc hay sao? Đây mới đích thị là cái tứ thơ mà Trần Danh Án muốn diễn đạt. Nên nhớ rằng, về hình thức thì đây là một câu nghi vấn phủ định còn về thực chất thì đó là một câu tán thán. Chính vì cái tứ thơ như thế nên ta mới có dị bản của câu này là: Cô thần đối thử tình vô cực. Vô cực là “ không hết”,“không dứt”,“không nguôi”,“không vơi”,v.v., chứ nếu hiểu cực là “khổ cực” như ông Nguyễn Quảng Tuân thì câu dị bản sẽ có nghĩa là: Trước cái thực tế đó thì tấm lòng của kẻ cô thần này chẳng “khổ cực” tí ti nào! Nghĩa là Trần Danh Án sẽ … khoẻ re!
Đấy, chính vì muốn “giấu” bạn đọc những chỗ sai sơ đẳng như thế này của ông Nguyễn Quảng Tuân nên lần trước chúng tôi mới “cố tình cất đi” còn ông thì cho là chúng tôi đã “cố tình cắt đi”. Vì vậy nên lần này chúng tôi phải chỉ ra. Hẳn là ông đã hài lòng.
2.– Từ tượng thanh chỉ “ghi âm” chứ không “biểu niệm” nên Bà Huyện Thanh Quan đâu có xoàng xĩnh mà xài nó trong hai câu thơ của mình. Ông Nguyễn Quảng Tuân sai ngay từ đầu khi khẳng định rằng trong hai cấu trúc con quốc quốc và cái gia gia (Xin cứ tạm gọi như thế), thì quốc quốc và gia gia là những từ tượng thanh. Bất cứ ai có đủ lương thức bình thường và năng lực trung bình để thưởng thức thi ca cũng đều có thề hiểu rằng trong hai câu “ Nhớ nước đau lòng con quốc quốc – Thương nhà mỏi miệng cái gia gia ” thì Bà Huyện Thanh Quan muốn nói đến hai chủ thể là hai giống chim, chứ ở đây, bà tuyệt đối không nói đến tiếng kêu của bất cứ con gì. Con gì vì nhớ nước mà đau lòng? Trả lời: – Con quốc quốc. Cái gì vì thương nhà mà mỏi miệng? Trả lời: – Cái gia gia. Ở đây, các câu hỏi thì tuyệt đối phù hợp với luận lý nội tại của bài thơ còn các câu trả lời thì rành mạch và chắc nịch. Vậy thì tượng thanh là tượng thanh thế nào? Huống chi, hai cấu trúc đó còn bị ràng buộc một cách chặt chẽ về cú pháp: con và cái là những danh từ đơn vị, bắt buộc đi liền sau nó phải là danh từ khối để được xác định, chứ không thể là những từ tượng thanh, vì nghịch qui tắc nên hoàn toàn vô duyên. Để định danh, định loại động vật, chẳng hạn, ta chỉ có thể nói con mèo chứ không thể “con meo meo” hoặc “con ngao ngao”, con vịt chứ không thể “con cạp cạp” hoặc “con cạc cạc”, con gà con chứ không thể là “con chíp chíp”, con chó chứ không thể là “con ẳng ẳng” hoặc “con gâu gâu”,v.v.. Lý do rất đơn giản : Danh từ mới diễn đạt khái niệm còn từ tượng thanh thì chỉ “ghi âm” tiếng động mà thôi; nó phi khái niệm. Dĩ nhiên là ở đây, ta sẽ không kể đến việc tấu hài trên sân khấu hoặc trường hợp của người nước ngoài mới bập bẹ được vài câu tiếng Việt muốn diễn tả cho người khác biết mình muốn chỉ con vật nào vì đây là chuyện siêu ngôn ngữ. Chứ còn ngôn ngữ văn học thì không chấp nhận chuyện này, nhất lại là trong thơ trữ tình. Với qui tắc cú pháp này, quốc quốc và gia gia (Vẫn cứ xin tạm gọi như thế) dứt khoát phải là những danh từ khối. Không thể nào khác thế được.
3. – Vậy “quốc quốc” và “gia gia” có phải là danh từ khối hay không? Hai tiếng “gia gia” đâu có phải là một đơn vị từ vựng của tiếng Việt nên tất nhiên cũng không phải là một danh từ khối. Mà đây cũng chẳng phải là từ tượng thanh vì con đa đa đâu có kêu “gia gia” ( Xin x. mục 5)! Vậy đó là hai tiếng hoàn toàn lạc lõng mà người ta đã tùy tiện đưa vào để chiếm chỗ của hai tiếng đa đa. Chứ cuốc cuốc/quốc quốc, mà chúng tôi xem là danh từ, nhưng ông Nguyễn Quảng Tuân cho là sai, thì có thể và cần được xem xét bằng cách so sánh với các trường hợp tương tự. Con bướm, trong Nam vẫn gọi là con bươm bướm; chim sẻ, trong Nam vẫn gọi là chim se sẻ; con nhện, trong Nam gọi là con nhền nhện; trong Nam nói con cu thì nhiều nơi gọi là con cu cu; bây giờ, cả nước đều nói con chuồn chuồn chứ hồi giữa thế kỷ XVII thì Đàng Ngoài chỉ gọi là chuồn (X. Từ điển Việt Bồ La của A. de Rhodes) nên mới có danh ngữ mũ cánh chuồn (Nguyễn Du cũng viết: Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn); Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa dịch thủy phù 水 鳧 là vịt le mà ngày nay ta gọi là le le, dịch thuần điểu 鶉 鳥 là cút cút mà ngày nay ta chỉ gọi là cút, dịch hồ điệp 蝴 蝶 là bươm bướm trong khi người miền Bắc hiện nay chỉ gọi là bướm; v.v. và v.v.. Trong cái bối cảnh chung của sự dùng từ đơn tiết hoặc dạng song tiết láy âm toàn bộ của nó để gọi tên động vật như trên mà ông Nguyễn Quảng Tuân lại cho rằng cuốc cuốc/quốc quốc không phải là danh từ thì rõ ràng ông đã quá chủ quan và võ đoán, trừ phi ông nắm chắc trong tay tấm bản đồ lịch sử từ vựng toàn quốc về danh từ chỉ con cuốc (mà trên tấm bản đồ này, ta tuyệt đối không thấy có hai tiếng cuốc cuốc).
Huống chi, tai hại thay, cái thí dụ “ăn tiền” nhất mà ông đưa ra để bác chúng tôi thì đã phản lại ông. Ông viết :“Cũng như khi nói ‘ve kêu ve ve’ thì chữ ‘ve’ mới chỉ con ve còn ‘ve ve’ lại là một từ tượng thanh chỉ tiếng kêu của nó hoặc khi nói ‘con quạ kêu quạ quạ’ thì chữ ‘quạ’ mới chỉ con quạ còn ‘quạ quạ’ cũng lại là một từ tượng thanh chỉ tiếng kêu của nó.” Ông đã nhầm! Dictionarium Anamitico Latinum (1772-73) của Pierre Pigneaux de Béhaine, Dictionarium Anamitico Latinum (1838) của J.L.Taberd (chứ không phải “ AJ.L.Taberd ”)(*), Đại Nam quấc âm tự vị, tome II (1896) của Huình-Tịnh Paulus Của đều có ghi nhận quạ quạ và ve ve với tính cách là những danh từ chỉ con quạ và con ve. Quyển từ điển của H.-T.P. Của còn ghi nhận cả câu Quạ quạ nuôi con tu hú. Cho đến năm 1970, Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức ở Sài Gòn vẫn còn ghi nhận danh từ quà quạ. Còn Dictionarium Latino - Annamiticum của M.H.Ravier (Ninh Phú,1880) thì đã cho tại mục CICADA như sau :“1.Con ve ve.(…) 3.Con ve ve vàng kẻ sang trọng bên Athênê đặt trên tóc.” Cho đến nay, Từ điển tiếng Việt của Vietlex (2007) vẫn ghi nhận ve ve như là từ địa phương. Nhưng cái bằng chứng sống mà chúng tôi muốn cung cấp cho ông Nguyễn Quảng Tuân là hiện nay, tại Huế, nhiều người vẫn gọi con quốc là quốc quốc (chi tiết do TS Hoàng Dũng cung cấp), nhất là ông già bà cả. Hình thái song tiết cổ xưa này của từ quốc cho phép ta có thể hoàn toàn yên tâm mà thẳng tay loại bỏ một cách không thương tiếc sự vấn vương về từ tượng thanh của ông để khẳng định rằng cuốc cuốc/quốc quốc là danh từ, nhất là khi mà nó đã đường hoàng có mặt tại câu thứ sáu trong bài “Qua Đèo Ngang”của Bà Huyện Thanh Quan.
4.– Ông Nguyễn Quảng Tuân đã đồng hóa hai tiếng gia gia trong cấu trúc cái gia gia của tiếng Việt với gia gia trong cấu trúc minh gia gia của tiếng Hán. Ông Nguyễn Quảng Tuân còn lẫn lộn cả tiếng Việt với tiếng Hán, rồi cả thơ Bà Huyện Thanh Quan với thơ Trần Danh Án nên, sau khi dẫn, phiên âm và dịch bốn câu thơ của Trần Danh Án, ông mới viết :
“ Như vậy, rõ ràng là Trần Danh Án đã nói đúng : chim đỗ quyên (con cuốc [theo cách hiểu truyền thống –AC]) kêu quốc quốc và chim giá cô (con đa đa) kêu gia gia. Hơn nữa, câu thơ ‘Thương nhà mỏi miệng cái gia gia’ của Bà Huyện Thanh Quan đã cho chúng ta thấy là con chim đa đa đã kêu ‘gia gia’mỏi cả miệng.Thế thì ‘gia gia’ phải là một từ tượng thanh để có thể đối với ‘quốc quốc’ cũng là một từ tượng thanh. Đối như thế mới thực là chọi chứ!”
Ông Nguyễn Quảng Tuân đã lẫn lộn toàn là những từ ngữ chủ chốt. Trong thơ Trần Danh Án, minh gia gia là một ngữ động từ của tiếng Hán mà minh là động từ trung tâm còn gia gia là một từ tượng thanh (mà, tiếc thay, cả người Trung Quốc lẫn người Việt Nam chưa bao giờ nghe như vậy!).Vậy dịch nó thành “kêu gia gia” (để tôn trọng hai tiếng “gia gia” do Trần Danh Án “sáng tác”), như ông đã làm, thì thật là không còn gì hữu lý cho bằng! Nhưng từ đó mà bắt cấu trúc cái gia gia (Xin cứ tạm chép như thế) của tiếng Việt trong thơ Bà Huyện cũng phải y chang thì rõ ràng là ông đã làm chuyện ép duyên. Cái là danh từ đơn vị (chứ không phải động từ như minh trong minh gia gia) nên đi liền ngay sau nó phải là một danh từ khối, chứ dứt khoát không thể là một từ tượng thanh, như đã khẳng định ở mục 2. Vì vậy nên ở đây dứt khoát không có chuyện “kêu gia gia”. Huống chi, nếu ta chấp nhận gia gia là từ tượng thanh (phi khái niệm) thì cái con vật trong câu thơ của Bà Huyện sẽ không có tên nên ta không tài nào biết được thương nhà mỏi miệng cái chi chi! Ở đây ta không thể chơi kiểu 2 trong 1: gia gia vừa là từ tượng thanh ,vừa là danh từ khối! Còn nếu ai đó cứ cố cãi rằng ở đây, Bà Huyện chỉ “chơi” từ tượng thanh mà thôi, nghĩa là bà chỉ cần lấy tiếng kêu của con đa đa để chỉ chính nó thì ta sẽ không còn gì để nói. Đứa trẻ lên ba cũng có thể làm như thế.
5.– “Gia gia” cũng đâu có phải là tiếng kêu của con đa đa! Đúng như thế và đây là một căn cứ tối quan trọng : Con đa đa đâu có kêu “gia gia”. Với cái tai của dân gian người Việt và theo truyện cổ tích thì nó kêu : – Bát cát quả cà ! Rồi tùy địa phương, tùy câu chuyện kể, mà đó là : – Cách ca ca, bốc chép cho cha, hoặc: – Đánh chác đầu ra! Bạc ác đa đa! Hoặc: – Tiếc rổ tép đa đa! Tiếc rổ tép đa đa! Rườm rà hơn thì là : – Bát cơm cát trả cho cha, đánh bể óc ác la, ác la đa! Còn dân gian Tàu thì nghe thành : – Hành bất đắc dã ca ca 行 不 得 也 哥 哥 ! Nếu phiên theo âm Bắc Kinh thì sẽ là : – Xíng bù dé ye¸ ge ge ! (Đây mới đích thị là cái chỗ lâm ly, bi đát trong tiếng kêu của con đa đa, như sẽ phân tích ở mục 9).Ta không hề nghe thấy tăm hơi của hai tiếng “gia gia”. Đây chỉ là một cách phiên âm trẹo trọ “ phản nguyên bản ” nhưng đã làm cho nhiều người khoái chỉ vì nó đã đặt vào thế đối mấy tiếng quốc quốc ↔ gia gia, bất chấp “cái gia gia” là một cấu trúc hoàn toàn vô nghĩa. Đã thế, người ta lại còn dựa vào cái cấu trúc này mà đặt ra sự tích chim đa đa, trong đó Bá Di, Thúc Tề là hai nhân vật ngu trung, sau khi chết đã hóa thành chim mà kêu : – Bất thực túc Chu gia! Bất thực túc Chu gia!(Không ăn thóc nhà Chu! Không ăn thóc nhà Chu!). Rất tiếc rằng đây chỉ là Bá Di, Thúc Tề dỏm, chứ nếu đó đích thực là dân thời cuối Thương đầu Chu ở bên Tàu thì hai con chim kia phải kêu “ Bất thực Chu gia túc!” cho đúng với cú pháp của tiếng Hán chứ đâu có phải là cái danh ngữ “túc Chu gia” trẹo qui tắc nọ. Nhưng cái chỗ dỏm đời nhất, dở hơi nhất, bịp bợm nhất của cái sự tích này là ở chỗ tiếng kêu của con chim là “gia”,“gia” mà tên của nó thì lại là đa đa! Rõ ràng “gia gia” chỉ là một cách phiên âm giả tạo cho hai tiếng cuối trong câu thứ sáu của bài “Qua Đèo Ngang”. Thế mà người ta đã chấp nhận nó một cách thụ động hàng trăm năm nay và còn hân hoan khen lấy khen để, hoàn toàn không biết rằng “cái gia gia” chỉ là một cấu trúc rỗng tuếch về ngữ nghĩa và sai bét về ngữ pháp. Khôi hài nhất là hàng trăm năm nay, từ cái cấu trúc dỏm đó, các “nhà có uy tín” kia đã suy ra được những cái ý dễ làm rung động lòng người về gia đình, đất nước, trong đó dĩ nhiên không thể thiếu được sự hoài niệm về nhà Lê (mà thực ra, ta cũng chẳng biết Bà Huyện có “hoài” hay không). Vì vậy nên ngày nay, nhiều người mới ngỡ rằng, với hai cấu trúc con cuốc cuốc và cái đa đa thì người ta không thể suy ra được những cái ý lâm ly, bi đát như thế.
6.– Ông Nguyễn Quảng Tuân đã không minh bạch khi đưa ra văn bản chữ Nôm của bài “Qua Đèo Ngang”. Cái cơ sở của hai chữ “gia gia” rõ ràng rất mỏng manh, lỏng lẻo, nói thẳng ra, là hoàn toàn giả tạo nhưng ông Nguyễn Quảng Tuân thì lại ra sức gia cố nó (dĩ nhiên là một cách vụng về). Ông viết: “Các nhà biên soạn các tuyển tập thơ văn cổ và các sách giáo khoa thời trước như Trần Trung Viên trong Văn đàn bảo giám, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc trong Nam thi hợp tuyển, Dương Quảng Hàm trong Quốc văn trích diễm và Việt Nam văn học sử yếu, Lê Thành Ý và Nguyễn Hữu Tiến trong Việt văn hợp tuyển giảng nghĩa …đều đã căn cứ vào bản Nôm để phiên âm sang Quốc ngữ.” Sau cái câu chúng tôi vừa dẫn này, ông Nguyễn Quảng Tuân bèn đưa ra một bài “Qua Đèo Ngang” chữ Nôm “chế bản điện tử”; rồi ông cho in luôn bản phiên âm sang quốc ngữ (dĩ nhiên là của ông). Qua những thao tác trên đây của ông, ta có thể thấy ông Nguyễn Quảng Tuân không minh bạch chút nào. Ông tuyệt nhiên không cho ta biết cái bản gốc của bài thơ chữ Nôm mà ông cho in tại cột 3, tr.55 của Hồn Việt số 22, ông đã lấy ở đâu ra. Nó là một bản chép tay vô danh, hay nó là một bản chép tay lưu tại thư viện nào, hay nó là một bài in trong một tuyển tập khắc in mộc bản và bản này do nhà nào tàng hoặc khắc, hay là ông hoặc người ông nhờ đã tự mình “thiết kế” một bản Nôm “mô-đéc” rồi gõ bằng Hanosoft Tools; v.v., ông không hề cho biết.
Ông cũng không hề chỉ rõ cho ta thấy tại sao ông biết được đó là bản duy nhất mà cả bốn người/nhóm Trần Trung Viên, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Dương Quảng Hàm, Lê Thành Ý & Nguyễn Hữu Tiến, đều cùng căn cứ vào để phiên âm sang quốc ngữ trong sách của họ. Mà Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm chỉ có cho tiểu sử vắn tắt của Bà Huyện Thanh Quan ở cước chú số 13 của Chương thứ XX, Thiên thứ Năm, Năm thứ Nhì chứ đâu có chép bài thơ nào của bà. Còn Quốc văn trích diễm thì chỉ chép có hai bài “Chùa Trấn-bắc” và “Chiều hôm nhớ nhà” chứ nào có chép bài “Qua Đèo Ngang”. Ông Nguyễn Quảng Tuân muốn qua mặt thiên hạ chăng? Chúng tôi cho rằng, với ông, ở đây, ta chỉ có một bài thơ chữ Nôm “điện tử hiện đại” do ông hoặc ai đó “chế bản” chứ ông chẳng chép nó từ một bản gốc nào cả. Thế mà ông còn dám lớn tiếng khẳng định : “ Ngày nay, các sách văn học và các sách giáo khoa cũng đều chép bằng Quốc ngữ hai câu luận của bài Qua đèo Ngang đúng như trong bài thơ chữ Nôm kể trên.” “Bài thơ chữ Nôm kể trên” mới ra lò hồi tháng 4-2009 trên Hồn Việt số 22 còn “ các sách văn học và các sách giáo khoa” kia thì đã xuất hiện tự đời nảo đời nao mà ông bảo người ta “chép” là chép thế nào? Ông phải nói ông đã căn cứ vào những quyển sách đó mà gõ, hoặc nhờ người gõ vi tính thành cái bài chữ Nôm mà ông đã cho in, phải nói như thế mới được chứ!
7. – Chữ Nôm của ông Nguyễn Quảng Tuân có phải là chữ của Bà Huyện Thanh Quan hay không? Với bài “Qua Đèo Ngang” “chế bản điện tử” này, ta thấy mấy chữ cuối của hai câu thơ đang xét là 昆 國 國 mà ông đọc là “con cuốc cuốc” và 丐 家 家 mà ông đọc là “cái gia gia”. Chúng tôi hoàn toàn không tin rằng “cái gia gia” 丐 家 家 là chữ của Bà Huyện Thanh Quan, trừ phi ông Nguyễn Quảng Tuân trưng ra được đúng thủ bút của bà. Vậy nếu ông có cái may mắn nghìn năm có một là nắm được trong tay bản thủ bút của Bà Huyện trong đó ba chữ đang xét đúng là cái gia gia 丐 家 家 thì sao? Thì chúng tôi sẽ phải thẳng thắn công nhận rằng ông Nguyễn Quảng Tuân hoàn toàn đúng, đúng tuyệt đối. Chẳng những thế, chúng tôi sẽ còn công khai hóa lời chúng tôi xin lỗi ông vì đã từng phản bác ông về chuyện này nữa. Nhưng đồng thời chúng tôi cũng sẽ viết bài phân tích để khẳng định rằng văn chương của Bà Huyện mà như thế thì có khác gì văn chương của anh nát rượu khi anh ta dùng ba tiếng “cái be he” để chỉ con dê!
Thực ra thì, về vấn đề văn bản, ta không thể tin ông Nguyễn Quảng Tuân. Làm sao mà ông có thể biết được chữ Nôm của Bà Huyện? Về nguyên tắc, một tiếng (âm tiết) có thể được ghi bằng một hoặc nhiều chữ (ngược lại, một chữ cũng có thể có nhiều cách đọc), vậy làm sao ông biết được trúng phốc cái chữ của bà? Một thí dụ: tiếng đá, tiếng thứ tư của câu thứ hai, được ông ghi bằng chữ 跢. Đây vốn là một chữ hình thanh mà nghĩa phù là túc 足 (để chỉ động tác “đá”) còn thanh phù là đa 多 (để chỉ âm “đá”). Nhưng đưa vào bài thơ của Bà Huyện, thì nó trở thành một chữ giả tá, mượn chữ chỉ động tác “đá” để ghi khái niệm “đá” trong “đất đá”. Trong khi đó, Nôm đã sẵn chữ hình thanh vốn dùng để chỉ “đá” trong “đất đá”, là mà nghĩa phù là thạch 石 (= đá) còn thanh phù là đa 多 (chỉ âm “đá”). Ta biết rằng ở thời của Bà Huyện, cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX thì lối hình thanh đã lấn át lối giả tá. Trong công trình mới nhất và rất đầy đặn của mình là Khái luận văn tự học Chữ Nôm (Nxb Giáo dục, 2008), GS.TSKH Nguyễn Quang Hồng đã khẳng định :“ Vào những năm đầu của thế kỷ XVIII với sự xuất hiện của những bản dịch văn xuôi chữ Nôm Thi kinh giải âm và Truyền kỳ mạn lục (giải âm), được nhà Kế Thiện Đường khắc ván một cách nghiêm cẩn vào năm Vĩnh Thịnh 10 (1714), cho thấy một bước tiến mạnh mẽ của chữ Nôm trên đường hoàn thiện mình. Xu hướng gia thêm phần biểu nghĩa vào các chữ vốn là chữ mượn Hán (…) được tăng cường, và kết quả là kể từ bấy giờ, tỷ trọng của chữ mượn Hán (và chữ thuần biểu âm) không còn ở thế thượng phong nữa (…). Càng về sau, bộ phận nòng cốt của hệ thống chữ Nôm sẽ không còn là chữ Nôm thuần biểu âm, mà là những chữ Nôm biểu âm kèm biểu ý (tức những chữ hình thanh – AC).” ( Sđd, tr.387). Vậy nếu ông Nguyễn Quảng Tuân biết được đặc điểm này trong quá trình phát triển của chữ Nôm thì có lẽ ông đã chọn 石+多 thay vì 跢 chăng? Hay là ông vẫn nhất quyết cho rằng Bà Huyện chỉ dùng chữ 跢 vì lúc bấy giờ làm gì đã có công trình của GS Nguyễn Quang Hồng?
8. – Ông Nguyễn Quảng Tuân rất dị ứng với ngữ học. Cái nhược điểm cố hữu tai hại nhất của ông là ông rất dị ứng với ngữ học, mặc dù đây là một đồng minh chẳng những đắc lực mà còn thiết yếu cho văn học, và mặc dù thậm chí có nhà ngữ học còn tuyên bố một cách quyết liệt rằng, nếu không biết gì về ngữ học thì tốt nhất là … không nên làm văn học. Sự dị ứng đó cũng được ông bày tỏ trong bài đang bàn. Ông viết :“ Chúng ta nên nhớ, hồi đó vào thế kỷ XVIII và XIX chưa có phương pháp nghiên cứu theo Ngữ âm học lịch sử nên các nhà nho chỉ căn cứ vào mặt chữ Nôm để đọc cho đúng âm mà thôi.” Ông Nguyễn Quảng Tuân đã không biết đến một điều quá hiển nhiên, mà lại rất đơn giản là : “Vào thế kỷ thứ XVIII và XIX chưa có phương pháp nghiên cứu theo Ngữ âm học lịch sử ” tuyệt đối không có nghĩa là ngày nay ta không được phép nghiên cứu các vấn đề chữ nghĩa của hai thế kỷ đó – kể cả việc “ các nhà nho chỉ căn cứ vào mặt chữ Nôm để đọc cho đúng âm” – bằng ngữ âm học lịch sử. Mà nói cho đúng ra, nếu chúng tôi có vận dụng đến ngữ âm học lịch sử trong bài của mình thì chỉ là để vạch rõ cái sai của ông Nguyễn Quảng Tuân, của “Tiến sĩ Nguyễn Thị Chân Quỳnh mới ở Pháp về ” và của các vị đời nay khoái “cái gia gia” chứ, ở đây, các nhà Nho kia thì vô can. Chúng tôi không nói đến họ. Mà ông Nguyễn Quảng Tuân thì cũng tuyệt đối không có bất cứ một bằng chứng nhỏ nhoi nào về cái chữ mà họ đã nhìn vào để đọc cũng như về cái âm mà họ đã đọc ra (Rủi thay, bấy giờ làm gì đã có rì-coóc-đơ!). Vậy thì, dù sao, xin ông cũng cứ yên tâm vì chúng tôi chỉ dùng ngữ âm học lịch sử để phân tích cái sai của người thời nay mà thôi, dĩ nhiên là kể cả của người ở bên Tây mới về, và kể cả tiến sĩ.
Xin nói kỹ thêm một chút về tác hại của sự dị ứng với ngữ học. Nếu ông Nguyễn Quảng Tuân quan tâm đến cú pháp tiếng Việt thì hẳn là ông sẽ chẳng bao giờ nói rằng, ở đây, hai tiếng gia gia lại là từ tượng thanh vì từ tượng thanh không diễn đạt khái niệm nên không thể kết hợp với danh từ đơn vị (cái, con, chiếc, bức, v. v.) để định danh đối tượng. Và nếu ông quan tâm thêm đến cả cú pháp của tiếng Hán thì hẳn là ông sẽ chẳng bao giờ đánh đồng hai quan hệ cú pháp khác nhau một trời một vực trong minh gia gia và cái gia gia (một đằng là ngữ vị từ còn một đằng là ngữ danh từ ; một đằng là tiếng Hán, một đằng là tiếng Việt nên không thể dựa vào cái trước để kết luận về cái sau). Nếu nắm được qui luật của ngôn ngữ thì ông sẽ dễ dàng thấy rằng mấy tiếng quốc quốc, gia gia chỉ có thể là từ tượng thanh khi nó đi sau vị từ chỉ hành động phát âm, phát thanh (nói, cười, khóc, la, hét,v.v.), chứ không phải danh từ đơn vị con hay cái (Xin nhớ rằng ta đang bàn luận trong khuôn khổ hai câu thơ của Bà Huyện), chẳng hạn : Nhớ nước đau lòng kêu quốc quốc – Thương nhà mỏi miệng gáy gia gia (Xin cứ giả dụ như “gia gia” đích thật là tiếng kêu của con đa đa). Trong những ngữ vị từ kêu quốc quốc và gáy gia gia , quốc quốc và gia gia mới hẳn hoi là từ tượng thanh một cách tuyệt đối không thể nào bác bỏ được. Chứ trong con quốc quốc và cái gia gia thì … Nhưng xin nói rõ là nếu Bà Huyện mà lại thay hai ngữ danh từ đang xét bằng hai ngữ vị từ “kêu quốc quốc” và “gáy gia gia” thì thơ của bà sẽ rất “rẻ tiền”. Đấy, sự hiểu biết và sự vận dụng ngữ học đem lại cho việc bình giảng văn học rất nhiều cái lợi như thế. Vậy thì ta nỡ lòng nào mà dị ứng với nó!
9. – Hình tượng chim đa đa trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan chỉ là sự dụng điển “giá cô” trong thi ca Trung Hoa xưa. Có thể có người sẽ đặt vấn đề: – Vậy với hai tiếng đa đa thì liệu ta có thể khai thác cái khía cạnh “ thương nước nhớ nhà” lâm ly, bi đát kia được hay không? Cách đặt vấn đề này hoàn toàn không hợp lý. Ta phải tìm hiểu chủ đề thông qua ngơn từ của bài thơ chứ đâu có thể lấy chủ quan của mình mà áp đặt ngôn từ cho nó.
Vậy ở đây hai tiếng đa đa nói lên cái gì? Trước nhất, cần nhớ rằng văn chương bác học của ta chịu ảnh hưởng khá sâu đậm của văn học Trung Hoa. Hai câu thơ đang bàn của Bà Huyện là một thí dụ điển hình: câu trước dùng tích “Thục đế hóa thành chim đỗ quyên” (tức chim tu hú – mà ta đã nhầm thành con cuốc, muộn nhất cũng là từ thời Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa); câu sau dùng điển “giá cô” (mà ta thường dịch là chim đa đa). Giá cô, mà tên khoa học là Francolinus pintadeanus (Xin x. ảnh), là một loài chim được nhiều nhà thơ đời Đường, đời Tống lấy làm đề tài hoặc nhắc đến: Đỗ Mục, Lý Bạch, Lý Dực(Dục), Lý Ích, Lý Thiệp, Lý Thương Ẩn, Lý Quần Ngọc, Lý Quỳnh, Lưu Vũ Tích, Ôn Đình Quân, Tào Nghiệp, Tân Khí Tật, Tần Quan, Tô Thức, Trịnh Cốc, Trương Tịch,v.v.. Danh sách thì còn dài, nhất là nếu kể cả các đời khác. Đặc biệt, Trịnh Cốc đã được người đương thời mệnh danh là “Trịnh Giá Cô”, nhờ bài thơ “Giá cô” nổi tiếng. Và sở dĩ chúng tôi cố ý nêu một danh sách dài như thế – mà đâu đã hết! – là để nhấn mạnh rằng tả giá cô, vịnh giá cô, nhắc đến giá cô,v.v., hầu như đã trở thành một truyền thống trong thi ca Trung Hoa xưa.
Còn con chim giá cô, tức con đa đa, thì nổi tiếng về tiếng kêu sầu não của nó, dĩ nhiên là theo tâm thức của người Trung Hoa: – Hành bất đắc dã ca ca! (Đi không được đâu, anh ơi!). Tiếng kêu khiến người ta liên tưởng đến đường đi khúc khuỷu, gập ghềnh, người ra đi không dứt, kẻ ở lại ngóng chờ, v.v.. Tiếng kêu này là nguồn cảm hứng cho bài “Cầm ngôn”, bài thơ ba câu của Viên Nhữ Bích 袁 汝 璧, đời Minh : Hành bất đắc dã ca ca – Hành bất đắc dã ca ca – Thiên hạ đáo xứ thị phong ba [ 行 不 得 也 哥 哥 – 行 不 得 也 哥 哥 – 天 下 到 處 是 風 波] (Đi không được đâu, anh ơi! Đi không được đâu, anh à! Thiên hạ khắp nơi đều phong ba). Thậm chí ta còn có thể nói rằng hễ con chim giá cô (con đa đa) có mặt trong bài thơ nào thì y như rằng bài thơ đó có ý “mong chờ”, “nhớ thương”. Đặc biệt là trong bài thơ đã đưa đến cho Trịnh Cốc cái danh hiệu “Trịnh Giá Cô”, với hai câu: Du tử sạ văn chinh tụ thấp ; Giai nhân tài xướng thúy mi đê [ 游 子 乍 聞 征 袖 濕 - 佳 人 才 唱 翠 眉 低 ] , đại ý là chàng du tử vừa chợt nghe (tiếng chim đa đa) thì tay áo đã thấm ướt (dĩ nhiên là vì dùng để lau nước mắt) còn người đẹp (của chàng ở nhà) thì xướng lên bài “Giá cô từ” mà lông mày tô xanh cũng nặng trĩu (sụp xuống vì buồn nhớ). Chẳng những “đánh” vào cảm hứng của các nhà thơ, con chim giá cô còn đi vào tâm thức của dân gian Trung Hoa nữa, chẳng hạn trong việc đoán mộng. Có nhiều cái điềm khác nhau liên quan đến nó nhưng điều mà chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là phụ nữ mà nằm mơ thấy chim giá cô thì ắt sẽ cùng chồng chia ly. Ta không cần bàn đến chuyện đúng sai; chỉ xin nói rằng đấy, hình tượng giá cô vốn là một cái điềm xấu, buồn như thế và nó chi phối tâm thức của dân Trung Hoa mạnh như thế nên ta không thể tuyệt đối không quan tâm đến điều này khi phân tích hình tượng chim đa đa trong thơ của tác giả người Việt có nhiều điều kiện để tiếp xúc với thi ca cổ Trung Hoa như Bà Huyện Thanh Quan. Một người có học vấn như bà, trên đường vào Kinh nhận trọng trách Cung trung giáo tập, đến Đèo Ngang lúc bóng xế tà, trước cảnh cỏ cây chen đá, lá chen hoa, nghe tiếng cuốc cuốc, đa đa văng vẳng trong núi, lòng xốn xang nỗi niềm nhớ nhà, nhớ chồng, tự nhiên liên tưởng đến tích đỗ quyên và điển giá cô mà mình từng thưởng thức trong thơ Trung Hoa, là chuyện dễ hiểu, dễ thông cảm. Trong cái tâm tư và với cái thi hứng đó, Bà Huyện đã gọi đích danh hai giống chim này là cuốc cuốc và đa đa một cách tỉnh táo và chính danh. Chứ còn lấy cái từ tượng thanh “gia gia” trơ trẻn phi khái niệm kia mà chỉ con đa đa thì mới là lãng xẹt và vô duyên vì đó là phản Việt ngữ. “Gia gia” đối với “quốc quốc” chỉ là chuyện thùng rỗng kêu to mà thôi!
10. – Kết luận. Tóm lại, chúng tôi xin khẳng định rằng ba chữ cuối câu thứ sáu trong bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan là cái đa đa chứ dứt khoát không thể là “cái gia gia” vì : – 1. Từ vựng tiếng Việt tuyệt đối không có hai tiếng “gia gia” với tính cách là danh từ chỉ con chim đa đa ; – 2. Bà Huyện không có quyền bóp méo hai tiếng đa đa thành “gia gia” để chỉ giống chim này ; – 3. Nếu “gia gia” là từ tượng thanh (phi khái niệm) thì nó không thể kết hợp với danh từ đơn vị cái để định danh con đa đa ; huống chi, – 4. Với cái tai của người Việt, con chim đa đa cũng không bao giờ kêu “gia gia” ; còn – 5. ở đây, sở dĩ Bà Huyện Thanh Quan dùng thẳng hai tiếng đa đa chẳng qua vì bà muốn dùng điển “giá cô” trong thơ cổ của Trung Hoa mà thôi.
CHÚ THÍCH : (*) Tác giả này là J.L.Taberd (Jean Louis Taberd), chứ không phải “AJ.L.Taberd”, như đã cho in ở bìa ngoài của quyển Dictionarium Anamitico Latinum do Nxb Văn học & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học in lại năm 2004. “Cố vấn” tiếng La Tinh của hai cơ quan xuất bản này đã không hiểu được cụm từ “ EDITUM A J. L. TABERD ” ghi ở trang tên sách của bản gốc (Serampore, 1838). Trong cụm từ trên, “A” là một giới từ; ở đây, nó có nghĩa là “do”,“bởi”, và cả cụm có nghĩa là “do J.L.Taberd công bố”. Nó chẳng dính dáng gì đến họ tên của tác giả cả. Huống chi, người ta đã in tách biệt hẳn chữ “A” với chữ “J.”; thề mà vị “cố vấn” nọ vẫn ghép hai chữ lại với nhau thành “AJ.” để làm tên của tác giả thì thật là … đại táo tợn.
Nguồn: VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG ĐƯƠNG THỜI, số 3/2009