I. Nơi xuất hiện:
Hơn nửa thế kỷ trước, tiến sỹ văn khoa Pierre Gourou - uỷ viên thông tấn viện Viễn Đông Bác cổ Pháp, đã đi khảo sát các ngôi nhà ở Việt Nam từ Thanh Hoá đến Bình Định, đã tìm ra những điểm khác nhau của ngôi nhà ở mỗi vùng. Nguyên do chọn Quảng Trị làm nơi nghiên cứu của miền Trung, bởi lẽ qua những lần đi khảo sát, điều tra ông nhận thấy đa số kiểu nhà ở chung quanh Huế đều giống loại nhà ở Quảng Trị và nhiều ngôi nhà ở Huế đã được mua lại từ Quảng Trị rồi tháo ráp chuyển vào. Trong mô tả có một chi tiết khá thú vị, đó là một loại nhà ở đã tồn tại từ lâu ở Quảng Trị, có hai tầng mái. Kiểu kết cấu phần mái như vậy giống với các mái nhà ở của các vùng cách xa, từ tận Bình Định đến Phú Yên. Đến hôm nay ta gọi chung với cái tên là nhà Lá Mái. Nhà Lá Mái ở miền Trung gồm có các loại nhà: có thể là nhà Rội/Rọi (cột chôn xuống đất), nhà thượng Rường hạ Rội (thường có cột ở giữa) hoặc nhà Rường phổ biến (cột kê trên đá tán/đá tảng), đặc biệt nhà có hai tầng mái (mái dưới hay trần đắp đất trên sàn bằng tre hoặc gỗ, tầng trên là khung đỡ bằng tre lợp tranh hoặc lá).
Không thấy ông Pierre Gourou mô tả kiểu nhà này ở Quảng Nam, thế nhưng trong thời gian gần đây chúng tôi khảo sát lại các kiến trúc cổ truyền dân gian tại Quảng Nam thì phát hiện ở các vùng phía Nam của tỉnh: Tam Kỳ, Núi Thành, nhất là vùng trung du huyện Tiên Phướccòn tồn tại rất nhiều loại nhà kể trên có niên đại từ những năm 40 của thế kỷ XX trở về trước. Theo lời kể của cụ Nguyễn Huỳnh Anh (là chủ nhân của ngôi nhà cổ có niên đại trên 120 năm, đang còn ở tình trạng tốt nhờ sự chăm sóc bảo quản của nhiều thế hệ trong gia đình). Nhà cụ trước năm 1941 là loại nhà hai tầng mái (2). Và nhà của cụ Trần Khiêm 80 tuổi có từ thời người bố của cụ Khiêm dựng theo lời kể của chủ nhân, ngôi nhà. Căn cứ vào tuổi tác của cụ Khiêm và bố của cụ, cho phép chúng tôi dự đoán ngôi nhà này được dựng cách đây 85-90 năm.
Những năm gần đây, chúng tôi còn phát hiện nhiều ngôi nhà của người Chăm ở Ninh Thuận gọi là Thang Lâm, kiến trúc nằm trong khuôn viên của dòng họ và dành cho người giàu(3).
II. Định nghĩa và cách gọi tên ở từng vùng:
Theo Pierre Gourou “Nhà Lá Mái là loại nhà rương…; mái nhà có hai lớp gồm: một mái đầu tiên bằng đất nện để khô và một mái thứ hai lợp tranh, đỡ bằng những phên đan bằng tre thô sơ được bó đất cẩn thận, khoảng cách giữa hai lớp mái đạt mức tối đa ở trên nóc 40cm…” (bản dịch của Đào Hùng). Mái nhà có hai lớp mái gồm: Mái đầu tiên được làm bằng đất sét nện để khô và mái thứ hai được lợp bằng tranh được đỡ bằng những phên tre đan thô sơ, rồi được bó đất cẩn thận, khoảng cách giữa hai lớp mái đạt mức tối đa ở trên nóc 40cm. Tương tự ở Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ngoài trần đan bằng tre còn xuất hiện trần bằng những tấm gỗ ghép lại để đỡ lớp đất bên trên. Kiểu kiến trúc này khá phổ biến ở vùng Cửa Tùng, ở phía bắc sông Gianh được gọi là “mái xông” (4), hay là trần bích (bích có nghĩa là tường). Tuỳ theo từng vùng có tên gọi khác nhau:
- Ở Quảng Trị gọi là nhà Mái xông.
- Ở Quảng Nam gọi là nhà Bỏ đất (hay Trần bích)
- Ở Quảng Ngãi, đảo Lý Sơn gọi là nhà Đắp.
- Ở Bình Định, Phú Yên gọi là nhà Lá mái.
III. Kỹ thuật dựng nhà:
1. Mái: Ở thời điểm cách đây khoảng 50 năm là rất khó khăn để có ngói lợp nhà: xa trung tâm sản xuất ngói, đường giao thông kém, vật liệu này lại dễ vỡ. Vì vậy qua sự trải nghiệm của người đi trước cộng với tri thức bản địa đã giúp cho những con người ở những vùng này sử dụng tối đa các vật liệu sẵn có tại địa phương trong phương cách dựng nhà.
1.1 Phần mái đất (trần) (5)
Chỉ cần khai thác tre trồng quanh làng, chẻ nhỏ đan thành từng tấm rồi ngâm nước bùn (ở ruộng thấp bên dưới chân đồi). Thời gian ngâm kéo dài đến 3 tháng là tốt nhất. Các tấm tre này được lắp vào trần nhà, được đỡ bằng những đà gỗ hoặc tre (giữ nguyên thân) cũng được ngâm bùn, kế tiếp là một lớp đất sét ở ruộng có độ dẻo được nhào trộn với rơm (thân cây lúa sau khi thu hoạch) chặt nhỏ đắp lên trên các tấm tre này. Lớp hỗn hợp đất sét được đắp lên, được nén chặt bằng chày, búa gỗ cho đến khi đạt được độ dày khoảng 8-10cm. Với nhà của cụ Trần Khiêm, phần trần lót cho lớp đất sét là các tấm ván bằng gỗ dày 2,5cm, được lắp khít các cạnh vào nhau theo chiều rộng của lòng nhà. Các tấm ván này được giữ lại bằng những đà trần (đặt dọc ở bên trên) cũng có hỗn hợp đất sét và rơm phủ lên trên.
1.2 Phần mái tranh.
Với những lỗ mộng còn để lại ở những đầu cột, kết hợp với những thông tin của cụ Khiêm cung cấp thì khoảng cách mái nhà tranh bên trên với mái đất bên dưới vẫn không thay đổi so với mái ngói mới hôm nay. Ngày trước khi làm phần mái tranh thì bắt buộc phần mái đất bên dưới phải thi công xong. Cụ Huỳnh Anh cho biết các đầu cột nhà cụ ngày trước được xếp đá liên kết bằng đất sét cao đến 40-50cm, sau đó đặt bộ khung tre bên trên rồi lợp tranh như nhà tranh tre bình thường. Và dĩ nhiên, để chống gió lốc thì bộ khung tre được neo giữ bằng dây mây, dây rừng với bộ khung gỗ bên dưới.
Tiếp cận với một ngôi nhà tại Phù Mỹ, Bình Định, còn nguyên mái tranh (2004) hoặc ngôi nhà ở thôn Thạch Khê, thị trấn Sông Cầu, tỉnh Phú Yên thì phần khung tre đỡ mái tranh được chống đỡ bằng nhiều đoạn gỗ, tre ngắn với trần mái bên dưới, đầu cột tiếp xúc với mái đất được đắp cao tạo thành ụ và đa số các mái đất đều được đắp nghiêng theo mái tranh bên trên, phần bề mặt được miết kỹ. Nếu phần mái tranh bị dột nước, bề mặt đất không bị xói và nước dễ chảy xuôi theo mái đất.
2. Thân nhà:
Là loại nhà Rường, nên hầu như toàn bộ khung nhà, mái đất, mái tranh đều chịu lực trên các cột gỗ kê trên đá tán. Vậy nên, phần thân/vách nhà nếu là kết cấu bằng đất cũng không hề gì. Lớp đất bao bọc quanh nhà cụ Khiêm dày 10-11 cm đến nay vẫn còn tồn tại nhờ kết cấu khá bền vững, dẫu vật liệu chỉ là Thổ - Mộc. Cắt ngang một đoạn vách gồm các thành phần sau:
- Phần lõi: thân cau ngâm bùn chẻ nhỏ đặt đứng theo chiều cao thân nhà gọi là cây mầm, tre cũng đựơc ngâm bùn chẻ nhỏ đặt ngang theo chiều dài nhà gọi là cây trỉ. Cau và tre được liên kết với nhau bằng dây lạt tạo ô có kích thước 10x10 cm.
- Phần bao: cũng đơn giản như mọi nhà vách đất chứa hỗn hợp đất sét trộn với rơm (đào hố rồi đổ hai loại vào với nhau, dùng chân nhào kỹ, trát đều lên các lớp cốt tre và cau sao cho bề mặt vách đất khá phẳng cả hai mặt). Trong nhiều năm qua, cụ Khiêm đã phủ nhiều lớp vôi trắng quét trên bề mặt vách này, hiện vẫn chưa phai.
3. Mặt bằng tổng thể:
Trong các tỉnh chúng tôi đi khảo sát từ năm 2002 đến nay chỉ có duy nhất ngôi nhà của bà Lê Thị Bảng, 86 tuổi mà chủ nhân ngày trước là ông Bùi Đắc Dư (1869-1895) ở thôn Phú Xuân, xã Tây Xuân, huyện Tây Sơn (Bình Khê) thị trấn Phú Trọng, Bình Định là còn giữ nguyên mặt bằng tổng thể của ngôi nhà Lá Mái với các công năng sau (xem bản vẽ mặt bằng tổng thể):
- Nhà chính: thờ cúng và nơi nghỉ ngơi của đàn ông
- Nhà cầu: nhà nối với nhà chính cũng là nơi nghỉ ngơi của phụ nữ
- Nhà lẫm: kho chứa lúa
- Nhà bếp (bao gồm sân phơi bên trong): nấu nướng và chế biến nông sản
Các công trình này đều có mái trần đất để chống cháy, những ngôi nhà ở Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên đa số chỉ giữ lại phần nhà chính, các công trình khác đã thay đổi. Một số thông tin chỉ còn có thể tham khảo ở người già trong địa phương hoặc từ nguồn tự liệu ghi chép của Pierre Gourou.
(Kiến trúc nhà Rường Huế. Nguồn: www.daokimcuong.com.vn)
IV. So sánh nhà Mái Lá ở Lộc Yên, Tiên Phước, Quảng Nam và nhà Mái Lá ở Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên.
Qua mô tả của Pierre Gourou và trong đợt đi khảo sát gần đây, những ngôi nhà ở Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Trị (từ năm 2002 đến nay) cho biết: Tại Bình Định còn rất nhiều nhà nhưng đã tháo bỏ mái lợp tranh bên trên thay bằng ngói. Chúng tôi may mắn gặp được nhiều ngôi nhà ở Quảng Ngãi còn giữ nhiều yếu tố gốc (thân nhà, mái nhà) tuy nhiên mái tranh cũng đã được thay bằng mái ngói hoặc tôn. Nhà có phần chạm khắc đẹp nhất ở Lý Sơn là nhà ông Dương Pháp (thôn Tây An Hải). Ở Quảng Trị, chúng tôi theo mô tả tìm đến làng Liêm Công Tây và Di Loan nơi mà P. Gourou đã đến vào năm 1934, các kiến trúc này đã bị hư hại do chiến tranh và thay mới do người dân thay đổi nếp sống (đô thị hoá), hầu như toàn thôn là nhà mới với mái ngói. Từ những tư liệu viết đến hình ảnh kết hợp những đợt thực tế đo vẽ, chụp ảnh chúng tôi có những nhận xét sau:
- Khoảng cách từ trần đất đến mái tranh ở Quảng Trị thấp, ở Quảng Nam là trung bình, Bình Định là cao.
- Tận phía Nam sông Gianh, Quảng Trị từng tồn tại những ngôi nhà Lá Mái.
- Nhà Lá Mái thường là nhà của phú nông (vì nhiều tài sản, vật dụng quý hiếm cần bảo quản phòng tránh hoả hoạn).
- Nhà Lá Mái được làm bằng vật liệu: bằng tre, gỗ và đất đá, được khai thác tại chỗ.
- Nhà Lá Mái luôn có hai kiểu thức kết cấu vì nóc: vì xuyên tâm và vì có trụ trốn/con đội. Khoảng cách từ trính (trến) đến đòn đông: Nhà ở Quảng Trị khoảng 40-50 cm, nhà ở Quảng Nam từ 1-2m, và nhà ở Bình Định từ 1,2-1,5m.
V. Sự cấp thiết cần phải bảo tồn
1. Những nguyên nhân:
(1) Vật liệu tranh, tre, gỗ đến thời kỳ bị hư hỏng, có tuổi thọ không dài, tính ổn định thấp trong điều kiện khí hậu ở miền Trung Việt Nam.
(2) Người dân hay chủ nhân ngôi nhà hôm nay không hiểu giá trị của loại nhà có trần bằng đất và mái bằng tranh, một loại kiến trúc đặc biệt chỉ có duy nhất ở miền Trung.
(3) Nguồn vật liệu tranh rạ dùng lợp mái trở nên khan hiếm do người dân không
trồng nữa hoặc các nẩm tranh mọc tự nhiên cũng bị phá để trồng các loại cây khác) và cả người thi công không hiểu biết về cách xử lý bảo quản truyền thống các vật liệu thảo mộc này. Việc phun thuốc chống mối mọt loại vật liệu này cũng rất tốn kém.
(4) Đô thị hoá nông thôn.
- Do tác động của vật liệu mới xuất hiện ở thành thị như: bêtông, tôn, ngói mới, gạch men… cùng với sự hiểu sai về “xoá bỏ nhà tạm là tranh, tre, nứa” nên chủ nhân nhanh chóng phá bỏ các mái tranh, mái đất bằng cách lợp tôn, lợp ngói mới, thay trần đất bằng nhựa hoặc bêtông hoá cột, trụ, tường… nền lót gạch men, khung cửa bằng nhôm… Đồng thời mong muốn thay đổi ngôi nhà xưa sang kiến trúc hiện đại, chủ nhân đã tháo dỡ, thay thế một số bộ phận, bán ngôi nhà của mình đi.
- Việc mở rộng mặt bằng sinh hoạt (nhà giảm số cột) để phù hợp với điều kiện sinh hoạt hiện tại của gia đình; sự phân chia hoặc quy ước về chỗ ở của các thành viên trong gia đình bị xoá bỏ hoặc cải biên (phong tục) đã dẫn đến kiến trúc thay đổi.
2. Ý nghĩa bảo tồn:
Nhiều năm trở lại đây, các nhà nghiên cứu kiến trúc Việt Nam quan tâm đến việc nghiên cứu các kiến trúc từ vật liệu thiên nhiên đến bố trí không gian hoà hợp, thân thiện với môi trường sống chung quanh; đặc biệt đối với những ngôi nhà trong vùng đô thị hoá, trở thành các đô thị lớn, thành phố lớn. Một chuyên gia hàng đầu về nghiên cứu kiến trúc vùng nhiệt đới, PGS.TS Hoàng Huy Thắng đã đề cập đến kiến trúc nhà ở với những khái niệm như: "kiến trúc sinh thái", “kiến trúc môi trường”, “kiến trúc xanh”, “kiến trúc có hiệu quả năng lượng” và “kiến trúc bền vững”.
- Kiến trúc sinh thái: Những ngôi nhà xưa - nhà Lá Mái, có phải là kiến trúc sinh thái không?. Ta có thể nêu lên những yếu tố của ngôi nhà mà giáo sư Thắng đã đề cập về khái niệm sinh thái. Ngôi nhà nằm ở vùng đồi gò thuộc Quảng Trị, Quảng Nam và cả Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên đều chịu ảnh hưởng vùng nhiệt đới gió mùa, gió Lào nóng. Vậy để chống nóng hữu hiệu, người ta phải đắp thêm lớp đất trung gian ở giữa mái để giảm bức xạ nhiệt của mặt trời. Lớp vỏ bao mái và thân nhà cũng giảm nóng và giảm lạnh. Như vậy loại mái đất trộn rơm đã khắc phục cái bất lợi của thiên nhiên, khí hậu nóng ẩm vùng nhiệt đới cũng như phòng tránh những giông sét thường xảy ra ở vùng gần núi, có thể gây ra hoả hoạn cho những ngôi nhà này bất cứ lúc nào.
- Kiến trúc môi trường: Tính ưu việt của loại nhà Lá Mái, là nguồn nguyên liệu được khai thác tại chỗ mà không làm ảnh hưởng môi trường sống chung quanh. Như đã mô tả ở phần trên, ngoài việc lấy đất ở chân ruộng làm nhà còn với mục đích làm cao bờ ruộng trồng lúa hoặc ao nuôi cá. Rơm, rạ, tre ngâm hoặc thân cây cau chẻ nhỏ cũng không qua chế biến, gia công phức tạp để có thể gây ô nhiễm môi trường. Và quan trọng nhất là những ngôi nhà ở Tiên Phước, Quảng Nam, đá được khai thác tại chỗ (xung quanh vườn đồi) để giải phóng diện tích canh tác, tăng thêm diện tích đất; ngoài ra người ta còn dùng đá gia cường, gia cố bờ kè, lối ngõ vững chãi, vừa ấm cúng vừa xanh mát cho nơi cư trú. Ở Cù Lao Ré không có rơm rạ, người ta dùng cỏ đế, đá núi, đá san hô làm mái nhà, thân nhà, ngõ đi. Tại Bình Định, Phú Yên người ta dùng lá dừa khô, tranh săn, đá ong xây dựng nhà.
- Điều mà chúng ta cần phải luôn suy nghĩ trong điều kiện sống hôm nay là những vật liệu mà chúng ta đã và đang sử dụng hôm nay đều tạo ra nhiều chất thải gây nguy hại đến nguồn nước, không khí, đến tầng Ôzon mà nhiều nhà môi trường đang cảnh báo như lượng khí thải độc, bụi, khói từ các nhà máy sản xuất xi măng, từ nhà máy thép, kính, nox, nhôm, nhựa; gạch nung bằng củi, than đá; các mỏ đá được khai thác bằng hoá chất, chất nổ... . Lớp đất làm trần ngăn cách mái tranh giữ cho ngôi nhà ấm áp vào mùa đông, mát mẻ vào mùa hè góp một phần tiết kiệm năng lượng điện, không phải sử dụng quạt, máy điều hoà.
- Một vấn đề cuối cùng là nhà Lá Mái có là kiến trúc bền vững không? Không phải là sự bền vững của vật liệu mà là sự bền vững hệ sinh thái. Theo tiến sỹ Nguyễn Đức Nguyên: “khó có một định nghĩa tách bạch, rạch ròi về kiến trúc bền vững…”. Tuy vậy nhóm danh từ Kiến trúc bền vững hiện nay đã được dùng khá phổ biến và các học giả đều thừa nhận nó có nguồn gốc từ khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện vào những năm 70 của thế kỷ XX. Tác giả lưu ý đến tính bền vững môi trường và bền vững xã hội với các yếu tố chính sau:
+ Giảm chất thải, nguồn phát sinh chất thải vào môi trường;
+ Sử dụng vật liệu tái sinh dạng thô;
+ Loại trừ các chất độc hại;
+ Đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người lao động;
+ Nâng cao chất lượng cuộc sống, cân bằng những tác động lên cộng đồng cư dân địa phương.
Như vậy kiến trúc nhà Lá Mái đã sử dụng các loại vật liệu xây dựng thân thiện với môi trường, không tạo ra sản phẩm chất thải, khí độc trong quá trình gia công chế biến cũng như khi tháo bỏ làm ảnh hưởng môi trường sống của cộng đồng xung quanh. Những ngôi nhà Lá Mái ở Tiên Phước, Quảng Nam nói riêng lại càng tạo nên tính gắn kết của cư dân vùng trung du với môi trường thiên nhiên xung quanh, cùng hòa hợp và khắc phục các điều kiện khí hậu của khu vực. Đây là sự quy hoạch sáng tạo của con người địa phương giữa ngôi nhà ở với cảnh quang chung quanh mang ý nghĩa “sinh thái nhân văn” (chữ của tiến sỹ Nguyễn Đức Nguyên).
Phó giáo sư Nguyễn Minh Sơn nói rằng: “Kiến trúc truyền thống Việt Nam luôn hướng hoà nhập thân thiện với thiên nhiên”. Còn Ken Yeang một kiến trúc sư nổi tiếng của Malaysia đã đưa ra khái niệm về “lớp vỏ công trình” coi đó là “bộ lọc môi trường” để lọc khí hậu từ bên ngoài vào bên trong nhà. Lớp vỏ công trình gồm: mái, thân nhà; đó chính là “cầu nối giữa con người với thiên nhiên…”; Và nói thêm “ta gìn giữ, bảo tồn lại kiến trúc này không chỉ để bảo tồn những gì được để lại, mà phải đảm bảo sự tồn tại của sinh quyển như một tổng thể”.
3. Những địa danh cần thiết phải bảo tồn:
- Nhà bà Lê Thị Bảng, thôn Phú Xuân, xã Xuân Tây, huyện Tây Sơn; Xóm chài An Hải, An Vĩnh thuộc huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi. Đây là vùng hải đảo có giá trị về cảnh quan, môi trường, các di tích kiến trúc lịch sử, văn hóa mà tỉnh Quảng Ngãi dự định phát triển du lịch.
- Làng cổ Lộc Yên, đặc biệt trong đó có nhà ông Trần Khiêm (ngôi nhà duy nhất còn mái đất), xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, Quảng Nam. Là vùng đất Trung Du, có giá trị về lịch sử, văn hoá, cùng với không gian kiến trúc làng cổ còn tương đối nguyên vẹn, dự định cho phát triển du lịch sinh thái.
- Nhà ông Nguyễn Mộng Toàn, thôn Đức Long (đội 6), xã An Đức, huyện Hoài Ân, Bình Định.
- Nhà ông Nguyễn Thanh Tâm, xóm Quán, thôn Thạch Khê, thị trấn Sông Cầu, Phú Yên.
Các ngôi nhà đã khảo sát từ Quảng Trị đến Phú Yên:
Quảng Trị: Nhà ông Nguyễn Văn Thu, thôn Thuỷ Trung, xã Vĩnh Trung, huyện Vĩnh Linh.
Quảng Nam: gồm các ngôi nhà ở huyện Tiên Phước (vùng trung du phía Tây Nam của tỉnh)
- Ở thôn Lộc Yên (thôn 4), thôn 5, xã Tiên Cảnh.
1/ Nhà ông Nguyễn Huỳnh Anh
2/ Nhà ông Nguyễn Đình Mẫn
3/ Nhà ông Nguyễn Thống.
4/ Nhà ông Nguyễn Ngọc Anh.
5/ Nhà ông Trần Khiêm
6/ Nhà ông Hồ Đức Nam
7/ Nhà ông Lê Văn Hào.
- Nhà chí sỹ Huỳnh Thúc Kháng, thôn Thạnh Bình, xã Tiên Cảnh.
- Nhà bà Võ Thị Hương, thôn 4 xã Tiên Mỹ.
- Nhà ông Nguyễn Hữu Nhãn, thôn Thanh Bôi, xã Tiên Châu.
Quảng Ngãi (chủ yếu là Cù Lao Ré, huyện đảo Lý Sơn)
- Nhà ông Lê Lý, thôn Tây An Hải, đảo Lý Sơn.
- Nhà ông Dương Định, thôn Tây An Hải, đảo Lý Sơn.
- Nhà ông Bùi Đồn, thôn Tây An Hải, đảo Lý Sơn.
- Nhà bà Dương Thị Hường, thôn Tây An Hải, đảo Lý Sơn.
- Nhà ông Nguyễn Hạp, thôn Đông An Hải
- Nhà ông Nguyễn Vinh thôn Đông An Hải.
- Nhà ông Nguyễn Cứ, thôn Đông An Vĩnh.
- Nhà ông Võ Hiển Đạt, thôn Tây An Vĩnh.
- Nhà ông Dương Hạp, thôn Tây An Hải. Bình Định:
- Nhà ông Nguyễn Văn Giản, xóm Gò Sành, thôn Phụ Quang, xã Nhơn Hoà, huyện An Nhơn.
- Nhà ông Hà Nhuận, thôn Vĩnh Bình, xã Mỹ Phong, huyện Phù Mỹ.
- Nhà ông Hà Tương Phùng, thôn Chánh Thuận, xã Mỹ Trinh, huyện Phù Mỹ
- Nhà ông Đặng Hiếu Chỉnh, thôn Vân Hội I, thị trấn Diêu Trì, TP. Quy Nhơn.
- Nhà ông Trần Tiên Trước, thôn Phú Gia, xã Cát Tường, huyện Phù Cát.
- Nhà Đỗ Hữu Toại,
- Nhà bà Lê Thị Bảng (nhà họ Bùi), thôn Phú Xuân, xã Tây Xuân, huyện Tây Sơn.
- Nhà anh Bùi Đức Tuân, thôn Phú Xuân, xã Tây Xuân, huyện Tây Sơn.
- Nhà anh Nguyễn Mộng Toàn, thôn Đức Long (đội 6), xã An Đức, huyện Hoài An.
- Nhà anh Nguyễn Thành Hà, xóm 4, thôn Phụng Sơn, xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước Phú Yên:
- Nhà anh Nguyễn Thanh Tâm, xóm Quán, thôn Thạch Khê, thị trấn Sông Cầu, huyện Sông Cầu, Phú Yên (chủ nhân ngày trước là ông Nguyễn Định Lung - cửu phẩm văn giai thời vua Thành Thái).
Chú thích:
(1) Theo mô tả của ông Pierre Gourou: phần liên kết hai cột cái theo hàng ngang bằng quá giang (lõng trếng) và hàng dọc bằng một xà gọi là xuyên. Trên quá giang và xuyên là cái sàn gọi là đố bản được khép kín về phía cửa vào bằng những tấm ván, trên đó người ta để các loại đồ dùng nên có tên gọi là Rương (cái hòm gỗ); ở Quảng Nam gọi là Rầm thượng và các tấm ván bọc xung quanh sàn để đồ này gọi là khuôn củi. Ở Bình Định gọi là Lẫm thượng nhưng bố trí ở nhà cầu và nhà lẫm để chứa đồ quý và lương thực. Rương hay Rường cũng là một loại nhà giống nhau của miền Trung.
(2) Tuyến đường Tam Kỳ - Tiên Phước - Trà My được mở bởi người Pháp vào những năm đầu thế kỷ XX giúp cho việc đi lại thuận lợi hơn; do đó nhà cụ Huỳnh Thúc Kháng, thôn Thạnh Bình, xã Tiên Cảnh và nhiều nhà ở vùng này trước đây cũng là nhà Lá mái được thay bằng mái lợp ngói sau những năm 40, thế kỷ XX.
(3) Bảo tàng các dân tộc Việt Nam đã phục dựng lại ngôi nhà này.
(4) Tường hai đầu hồi bằng đất gọi là tường xông, vì thế mái đất cũng được gọi là mái xông
(5) Trong chuyến khảo sát vào tháng 10/2007, tôi được biết nhiều kiến trúc bằng gỗ trước đây tại Cù Lao Ré đều có hình thức lợp mái theo kiểu nhà Lá Mái. Đó là do xa nơi sản xuất ngói, ngay cả vách bao che được xây bằng đất trộn cỏ đế hoặc đá khai thác tại chỗ, được liên kết bằng vôi (đá san hô) và nhớt từ thực vật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Phác thảo Nghiên cứu về nhà Việt Nam từ Thanh Hoá đến Bình Định của Pierre Gourou, bản dịch của Đào Hùng (Esquisse d’une étude l’habitation annamite, dans L’Annam Septentrional et central du Thanh Hoa au Binh Dinh. Les éditions d’art et d’histoire. Paris), tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Thừa Thiên Huế, số 4 (34), 2001.
2/ Nhà Lá mái ở Quảng Nam - kiến trúc sinh thái, trang 23-40 cùng tác giả trong “Nhà ở cổ truyền dân gian người Việt ở Quảng Nam”, Trung tâm Bảo tồn Di sản di tích Quảng Nam, tháng 4 năm 2008.
3/ Kiến trúc sinh thái Việt Nam. PGS.TS Hoàng Huy Thắng, tạp chí kiến trúc số 136, 08 - 2006.
4/ Đọc: What is an “Ecological House”? của Philip S. Wenz (tài liệu từ Internet)
5/ Đọc “Nhà đẹp” chuyên đề về Tre, tạp chí hội Kiến trúc Việt Nam, số 08/2008.
Nguồn: Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần 3, ngày 4-7 tháng 12 năm 2008.