Phật giáo được truyền vào nước ta từ những năm đầu của công nguyên, thậm chí một số nhà nghiên cứu cho rằng Phật giáo được truyền vào Việt Nam còn sớm hơn cả Trung Hoa[1]. Phật giáo hòa hợp với tinh thần dân tộc tạo nên những giá trị độc đáo, đặc trưng của những tác phẩm mĩ thuật thời Lý-Trần. Để làm rõ điều này, chúng tôi thử tìm hiểu một số mô-típ trang trí tiêu biểu ở các công trình chùa, tháp Phật giáo thời Lý-Trần.
Mô-típ trang trí chùa, tháp Phật giáo thời Lý-Trần phổ biến là hoa sen. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết của tinh thần nhà Phật, tinh thần vươn đến cái đẹp, cái thuần khiết của người tu đạo. Hoa sen cũng rất gần gũi với dân gian vì hoa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Trong kinh Phật có mô tả về cảnh chúng sinh sinh ra ở cõi nước của đức Phật A-Di-Đà. Đó là cõi nước mà chúng sinh sinh ra từ trong hoa sen. Mô-típ hoa sen được dùng trang trí trong các công trình kiến trúc Phật giáo, đặc biệt là các bệ tượng, chẳng hạn như tượng đức Phật A-Di-Đà ngồi tư thế hoa sen (tư thế kiết già). Chùa, tháp Phật giáo đời Lý-Trần trang trí rất nhiều hình tượng hoa sen: hoa sen trang trí bệ tượng Phật như ở chùa Phật Tích, chùa Đọi, tháp Chương Sơn, bệ đá hoa sen thời Trần, chùa Hào Xá (Hải Hưng)…
Mô-típ sóng nước cũng thường được trang trí ở các chùa, tháp Phật giáo mang đậm dấu ấn môi trường sông nước của người Việt Nam. Các nhà nghiên cứu mỹ thuật Phật giáo Lý-Trần đã sưu tập được nhiều dạng sóng nước trang trí ở các chùa, tháp Phật giáo từ thời Lý đến Trần như: sóng nước trang trí ở chùa Phật Tích; sóng nước trang trí ở vườn Bách Thảo Hà Nội; sóng nước trang trí ở tháp Phổ Minh đời Trần; sóng nước trang trí ở bệ đá Ngọc Đình… Mô-típ sóng nước rất đa dạng. Có mô-típ trang trí sóng nước phẳng lặng, nhấp nhô. Có mô-típ trang trí sóng nước hình sin (bệ đá Ngọc Đình). Có mô-típ sóng nước trang trí hình nhọn, biểu trưng cho cơn sóng lớn, cơn sóng dữ như ở tháp chùa Phổ Minh. Có mô-típ sóng nước được trang trí nhấp nhô, lớp sau xô lớp trước như ở chùa Phật Tích. Thời Trần, nhân dân Đại Việt đã trải qua 3 cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên rất hung bạo và hùng mạnh cho nên mô-típ sóng nước ở thời này (tiêu biểu là ở chùa Phổ Minh) tượng trưng cho ý chí quật cường, quyết tâm chống giặc đến cùng của cư dân Đại Việt. Mô-típ sóng nước ở đây có hình nhọn như đầu ngọn giáo sắc bén, cũng có thể xem như hình nhọn của ngọn lửa đang cháy bùng lên, quyết thiêu chết kẻ thù hung bạo. Nghệ thuật phản ánh tinh thần của thời đại và kinh tế, văn hóa, chính trị của thời đại tác động đến nếp suy nghĩ, tâm lí sáng tác nghệ thuật của người nghệ sĩ, do đó, chúng tôi cho rằng qua các mô-típ trang trí sóng nước ở các chùa, tháp Phật giáo cũng thể hiện tinh thần ấy.
Sau sóng nước, một mô-típ trang trí phổ biến nữa ở các công trình chùa, tháp Phật giáo đó là mây. Thường thì mô-típ trang trí mây thường kèm theo với trang trí rồng ở các bệ đá, phù điêu và cũng rất đa dạng. Mây trang trí phụ theo cho các con rồng vì rồng thường ẩn, hiện trong mây.
Về mô-típ con rồng. Những con rồng thời Lý trong các đồ án khác nhau, kích thước to nhỏ khác nhau và thuộc các di tích thời Lý xây dựng vào các thời điểm và địa điểm khác nhau, tuy nhiên đều rất giống nhau ở kết cấu tạo hình: đầu nhỏ với miệng mở vờn một viên ngọc đang xoay, răng nanh kéo dài xoắn với môi trên thành đường sống của chiếc mào có đường viền loăn xoăn như ngọn lửa đang bốc cao, phía trên mắt có những họa tiết hai đầu cuộn lại cùng chiều như số 3 ngửa và ngược chiều như hình chữ S, quanh mép có những lông măng và từ đó có một mảng kéo dài ra bốc lên lượn sóng làm bờm tóc, thân liền một mảng với đuôi thon tròn và kéo dài trong nhịp uốn thoăn thoắt như nhỏ dần mà nếu không để ý vị trí hai chân sau thì không phân biệt được, bốn chân nhỏ thanh với ba móng cong nhọn sắc như móng chim mà lúc nào cũng như bơi trong không gian, hai chân trước mọc so le nhưng hai chân sau lại mọc cùng một chỗ mà ở đồ án trong hình tròn hoặc hình thoi thì luôn có một chân sau vắt qua thân. Các nhà nghiên cứu thường xem con rồng thời Lý là “rồng rắn”: “Con rồng ấy kết hợp các yếu tố âm và dương để biểu hiện ý niệm phồn thực, biểu hiện sức mạnh vũ trụ mưa gió thuận hòa, người và vật đều sinh sôi, mùa màng tốt tươi và vương triều thịnh vượng” [Chu Quang Trứ 1998: 174]. Chùa, tháp Phật giáo thời Lý có quy mô lớn, được đầu tư và cũng là nơi hành cung để vua nghỉ tạm khi đi vi hành, các chùa có trang trí hình rồng, tượng trưng cho vương quyền. Không những thế, con rồng rất được cư dân làm nông nghiệp ưa thích, việc chạm khắc hình rồng, đắp tượng rồng ở các công trình tôn giáo đương thời cũng là sự giao thoa giữa ý muốn giai cấp quý tộc và nhân dân. Giai cấp quý tộc đã khéo lựa chọn theo ý nhân dân và cũng khéo kết hợp tôn giáo (thần quyền) và chính trị (vương quyền) để cai trị dân có hiệu quả.
Trong lịch sử, triều Lý được xem là một “triều đại thuần từ nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam”[2]. Cột đá chạm rồng ở chùa Dạm thời Lý là một công trình mỹ thuật mang nhiều ý nghĩa dân gian. Cột đá này, theo một số nhà nghiên cứu còn cho rằng nó tượng trương cho tín ngưỡng phồn thực của dân gian nhưng lại được đặt ở chùa. Điều này cho thấy tinh thần Phật giáo thời Lý rất cởi mở, sẵn sàng dung hòa với tính ngưỡng dân gian. Bước sang thời Trần, hình tượng con rồng phát triển thêm một bước mới dựa trên thành tựu của con rồng thời Lý. Con rồng thời Trần thường mập khỏe, uốn khúc mạnh với nhiều lần đổi hướng, chiếm lĩnh không gian xung quanh chứ không đều đặn mảnh dẻ, hòa tan vào nền trang trí như con rồng thời Lý. Rồng thời Trần không được gọi là “rồng rắn”, “rồng giun” nữa mà là con rồng dữ tợn hơn, tượng trưng cho vương quyền, ngoài ra nó còn có vảy. Đó là một khác biệt lớn trong cách trang trí rồng thời Lý và rồng thời Trần. Con rồng thời Trần ngày càng xa rời nhân dân. Trò chơi “rồng rắn” vẫn phổ biến trong nhân dân, nhưng các con rồng được trang trí ở hành cung nhà vua, mang dáng điệu rất khác với con rồng được nhân dân trang trí trên các đền, chùa, tháp Phật giáo trước đó. Gắn bó chặt chẽ với mô-típ trang trí rồng ở các chùa, tháp Phật giáo thời Lý-Trần là hình ảnh hạt châu, hạt ngọc đang xoay tròn, chúng làm nền cho rồng hoạt động và lấp kín những khoảng trống trong đồ án và mang thêm ý nghĩa. Trên bệ tượng chùa Phật Tích, trong đồ án có hai con rồng đuổi nhau. Đế bia đá chạm ổ rồng trên sóng chùa Đọi (Nam Hà).
Theo công trình nghiên cứu Mỹ thuật thời Trần của viện Nghệ Thuật thuộc Bộ Văn hóa thì trên các viên gạch tháp chùa Phổ Minh đời Trần có chạm hình rồng. Ngoài ra, ở trước cửa nhà bái đường, ở các bậc tam cấp có chạm khắc nhiều hình rồng. Đầu bẫy gỗ của tòa thượng điện chùa Bối Khê (Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Tây) cũng chạm hình rồng. Cũng ở chùa Bối Khê, một bệ đá tam thế chạm hình rồng đang phun lửa, đạp trên mây. Hình rồng và hoa trên một viên gạch chùa Hoa Yên, núi Yên Tử (Quảng Ninh); hình rồng trên cốn gỗ, chùa Dâu (Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh); hình rồng trên bệ đá chùa Ngọc Khánh (Gia Đông, Thuận Thành, Hà Bắc) v.v… Tất cả những chi tiết chạm rồng trên đều thuộc các chùa, tháp Phật giáo thời Trần. Ngoài ra, ở các lăng mộ của các vị vua đời Trần còn sót lại các chi tiết chạm rồng (trong bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến chùa, tháp Phật giáo). Điều đó, chứng tỏ rằng hình tượng con rồng rất phổ biến ở các công trình Phật giáo thời Lý-Trần nói riêng và các công trình mỹ thuật thời Lý-Trần nói chung.
Thêm một đề tài trang trí cũng khá phổ biến nữa trong các ngôi chùa, tháp Phật giáo thời Lý là mô-típ người bé xíu lẫn vào dây hoa. Ở chùa Phật tích, trên các mảng chạm dây hoa sen, hoa cúc, cứ mỗi cuống của một bông hoa lại có một hình người bé xíu đang leo trèo trên dây trông rất ngộ nghĩnh. Ở một mảng khác của chùa Phật tích trang trí hoa sen và hoa cúc và ngoài những hình người bé xíu leo dây, ở giữa bông hoa cũng trang trí hình người bé xíu đang nằm với tư thế rất thoải mái. Chúng tôi cho rằng, ở đây có sự can thiệp của các nhà sư am hiểu Phật pháp và đọc nhiều kinh Phật. Như đã nói, trong kinh Phật có mô tả về cảnh chúng sinh sinh ra ở cõi nước của đức Phật A-Di-Đà. Đó là cõi nước mà chúng sinh sinh ra từ trong hoa sen. Ở đây có sự kết hợp giữa nếp nghĩ của người nghệ sĩ dân gian và các bậc cao tăng am hiểu đạo Phật. Hoa cúc là của dân gian kết hợp với hoa sen nhà Phật cùng với mô-típ người bé xíu khiến người chiêm bái có cảm giác đạo Phật thật gần gũi với con người đời thường.
(Kiến trúc chùa, tháp Phật giáo. Nguồn : www.tongiaovadantoc.com)
Ngoài các mô-típ phổ biến trên, các mô-típ trang trí phụ khác như hình ảnh một số con vật quen thuộc với cư dân nông nghiệp như chó, trâu, hổ, chim; hình ảnh các nhạc công tấu nhạc, tiên nữ nửa hình người nửa hình chim trong mỹ thuật Chăm Pa, và các con vật cưỡi của các vị thần Bà-la-môn giáo mà người Chăm đã tiếp thu cũng được thể hiện trên các công trình chùa tháp Phật giáo.
Trong những mô-típ đặc trưng ở chùa, tháp Phật giáo thời Lý-Trần, không thể không bàn đến mô-típ đức Phật A-Đi-Đà ngồi tọa thiền ở tư thế kiết già, tiêu biểu là tượng đức Phật A-Di-Đà ở chùa Phật Tích. Theo sử cũ thì, năm 1066 , vua Lý Thánh Tông lại cho xây dựng một cây tháp cao bên cạnh chùa Phật Tích, sau khi tháp đổ mới lộ ra ở trong đó bức tượng Phật A-Di-Đà bằng đá xanh nguyên khối được dát ngoài bằng vàng . Để ghi nhận sự xuất hiện kỳ diệu của bức tượng này, xóm Hỏa Kê (gà lửa) cạnh chùa đổi tên thành thôn Phật Tích. Bức tượng này rất nổi tiếng với vẻ đẹp của nó cho nên Bảo tàng Lịch sử ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh đã cho phụ chế để trưng bày. Đức Phật A-Di-Đà ngồi tọa thiền theo tư thế kiết già (hoa sen),hai tai to, chảy xuống theo đúng mô-típ về mô tả các đức Phật trong Phật giáo. Lại nữa, hai mắt đức Phật đang ở trong tư thế nhập định, không mở to mà cũng không nhắm lại hoàn toàn, mà ngó xuống đầu cánh mũi hay rốn. Đó là tư thế ngồi thiền định đúng đắn của Phật giáo mang đầy ý nghĩa.
Nếu ngồi thiền với hai mắt mở to thì sẽ khiến cho hành giả bị phân tâm vì cảnh vật bên ngoài luôn động như con chim bay qua, con bướm lượn quanh ... Còn nếu hành thiền với hai con mắt nhắm hoàn toàn sẽ dẫn đến buồn ngủ, sẽ không còn hành thiền được nữa. Đức Phật có rất nhiều mỹ hiệu, một trong những mỹ hiệu rất thực tế của Ngài là Thế gian giải. Vì sự hiểu biết thế gian của Đức Phật được xem là thấu triệt, không gì không biết, do đó Ngài luôn mỉm cười. Tượng của các đức Phật tuyệt đại đa số đều được khắc với ý nghĩa như vậy, luôn mỉm cười. Một điều đặc biệt nữa là tượng đức Phật A-Di-Đà thể hiện với khuôn mặt thanh tú của người Việt, với cơ thể thon thả. Người nghệ sĩ xưa không cần mường tượng đâu xa một hình ảnh đức Phật khác lạ mà lấy ngay hình tượng người Việt rất gần gũi. Kết quả là đã tạo ra một tác phẩm mà bất kỳ người Việt nào nhìn vào đều thấy gần gũi, thân thương nhưng cũng không kém phần tôn nghiêm của Bậc Giác Ngộ.
Các nhà nghiên cứu mỹ thuật Lý-Trần cho rằng tuy mỹ thuật thời Lý và mỹ thuật thời Trần là hai giai đoạn kế tiếp nhau, có những điểm chung nhất định nhưng giữa hai giai đoạn này có một khoảng trống khiến ta có thể nhận thấy sự khác biệt giữa hai giai đoạn ấy. Mỹ thuật thời Trần đa dạng hơn ở các đề tài, ngoài những đề tài, mô-típ tiếp thu ở mỹ thuật thời Lý, mỹ thuật thời Trần đi tìm cái mới trong dân gian và ở cả phương Nam (nghệ thuật Chăm Pa) và tiếp thu mỹ thuật Trung Hoa đương thời một cách thận trọng, có mức độ. Thời Lý, Phật giáo có những công trình kiến trúc, chùa, tháp to lớn, bề thế với những miêu tả sắc sảo, trau chuốt khẳng định một Đại Việt tồn tại ngang hàng với Đại Tống. Ý chí của các ông vua Phật tử thuần thành nhưng cũng đầy tâm huyết là ở chỗ đó. Tứ đại khí của Đại Việt là một minh chứng cho tinh thần ấy. Sang đời Trần, đạo Phật vẫn tiếp tục phát triển rộng khắp và đạt đến cực thịnh. Tuy nhiên, nhà Trần lãnh đạo nhân dân chống quân xâm lược Mông-Nguyên ba lần đại thắng oanh liệt nhưng đất nước bị tàn phá nặng nề. Nhà nước không còn đầu tư ồ ạt vào các công trình chùa, tháp Phật giáo như ở thời Lý nữa. Hơn nữa, Phật giáo đời Trần với những đại biểu xuất sắc như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sỹ… là đại diện tiêu biểu cho Phật giáo Thiền, Phật giáo biện tâm, cốt yếu của tu theo đạo Phật là ở tâm.
Dưới thời Lý-Trần, Phật giáo là quốc giáo. Các công trình chùa, tháp Phật giáo trở thành trung tâm của sáng tạo mỹ thuật đương thời. Có thể nói, tất cả những tài năng về hội họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí đều thể hiện tập trung ở chùa, tháp Phật giáo. Các công trình mỹ thuật chùa, tháp Phật giáo là kết tinh của sự hội ngộ giữa mỹ thuật dân gian và mỹ thuật của đạo Phật. Người nghệ sĩ dân gian rất hồn nhiên mang những mô-típ đời thường của mình vào trang trí cho các công trình tôn giáo thiêng liêng này. Và dưới sự hướng dẫn của các vị trụ trì uyên thâm Phật học, vẻ đẹp hồn hậu của dân gian cùng với vẻ đẹp tôn nghiêm, linh thiêng của Phật giáo tạo nên những giá trị văn hóa hết sức độc đáo đúng như nhận định của Chu Quang Trứ: “Nghệ thuật thời Lý-Trần đã sản sinh ra những công trình vĩ đại nhất trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, trong đó chủ yếu là nghệ thuật Phật giáo, nét riêng của dân tộc được cô đọng trong những sáng tạo tuyệt vời” [Chu Quang Trứ 1998: 29].
Chú thích:
[1]Xem ý kiến của GS. Minh Chi trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Viện Triết học, NXB Khoa học Xã hội Hà Nội 1991, tr.32
[2] Xem ý kiến của học giả Hoàng Xuân Hãn trong Lý Thường Kiệt - Chính sách ngoại giao và tông giáo triều Lý in ở La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập 2, từ trang 249-563, NXB Giáo Dục 1998.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Đức Nùng (chủ biên) 1977, Mỹ Thuật Thời Trần, Viện Nghệ thuật-Bộ Văn hóa, NXB Văn hóa Hà Nội.
- Chu Quang Trứ 1998, Mỹ thuật Lý-Trần, Mỹ thuật Phật giáo, NXB Thuận Hóa.
- Viện Triết học 1991, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội Hà Nội.
- 4.La Sơn Yên1998, Hồ Hoàng Xuân Hãn tập 2, NXB Giáo Dục.
Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ số 219, 06/2014.