Năm 1620, Công chúa Ngọc Vạn (còn gọi là Công nữ), con gái của chúa Nguyễn, về làm dâu hoàng tộc xứ Chân Lạp và là hoàng hậu được sủng ái của vua Chey Chetta II. Đây là cuộc hôn nhân “chính trị” vì vua Chetta II từng làm tù binh nhiều năm ở Xiêm La muốn dựa vào các chúa Nguyễn để củng cố vương triều của mình. Tới năm 1623, “chúa Nguyễn đã đề nghị vua Chey Chettha II được lập đồn thu thuế ở Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé). Đây là vùng rừng rậm hoang vắng nhưng cũng là địa điểm qua lại và nghỉ ngơi của thương nhân Việt Nam đi Campuchia và Xiêm La. Chẳng bao lâu, hai đồn thu thuế trở thành thị tứ trên bến dưới thuyền, công nghiệp và thương nghiệp sầm uất”. (Nguyễn Đình Đầu - Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh 300 năm địa chính). Thái Văn Kiểm, trong bài “Tìm hiểu vài địa danh Nam Việt” trên tạp chí Bách Khoa số 89 ngày 15-9-1960, đã dịch một đoạn trong quyển Le Royaume du Cambodge của Moura do Ernest Leroux xuất bản năm 1883 tại Paris, “Năm 2167 Phật lịch, tức là năm 1623 công nguyên, một sứ giả của vua An Nam đã dâng lên vua Câm Bốt Préas Chey Chesda một phong thư, trong đó vua An Nam ngỏ ý “mượn” của nước Câm Bốt xứ Prei Nokor và xứ Kas Krobey, để đặt làm nơi quan thuế. Préas Chey Chesda, sau khi đã tham khảo ý kiến của đình thần, đã chấp (thuận) lời yêu cầu trên và đã phúc thư cho vua An Nam biết. Vua An Nam bèn ra lệnh cho quan chức đặt sở quan thuế tại Prei Nokor và Kas Krobey, và từ đó bắt đầu thâu quan thuế”.
Như vậy một “cơ quan thu thuế” của người Việt chính thức có mặt ở hai địa phương Prei Nokor và Kas Krobey, ngầm thừa nhận người Việt đã có mặt tại hai nơi này trước đó khá lâu và khá nhiều, có thể từ cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. Bởi phải có người cư ngụ, sản xuất, buôn bán và phải là người Việt thì chúa Nguyễn mới đặt vấn đề thu thuế. Và thời điểm vua Chân Lạp đồng ý cho người Việt đặt trạm (hay đồn) thu thuế là dấu mốc đầu tiên xác định sự có mặt của “chính quyền Việt Nam” tại mảnh đất này.
Thái Văn Kiểm cho rằng “Prei Nokor là thủ đô của Thủy Chân Lạp”. Và prei có nghĩa là rừng, nokor là xứ, kinh đô, vương quốc chứ không phải là “gòn”. Ông Kiểm cũng khẳng định “prei đã sinh ra chữ rẫy và nokor sinh ra chữ nước”, còn “kas có nghĩa là tiền và krobey nghĩa là trâu”. Và Kas Krobey có nghĩa là “tiền trâu, nghĩa là nơi buôn bán và thu thuế trâu, một gia súc rất cần cho xứ Thủy Chân Lạp là nơi bùn lầy nước đọng”. Còn Người Long Hồ thì trích Phương Đình dư địa chí: “sông Tân Bình chảy qua vùng phía bắc huyện Bình Dương khoảng 5 dặm, tức vùng Bến Nghé, có tên là sông Ngưu Hống… Tục truyền sông này có nhiều cá sấu, từng đàn đuổi nhau kêu gầm như tiếng trâu kêu cho nên gọi là Ngưu Hống, nên nước sông lúc nào cũng đục” (Kas Krobey hay Prei Nokor là Sài Gòn - Người Long Hồ).
Nhà cổ học Malleret trong bài viết “A la recherche de Prei Nokor” đăng trong tạp chí của Hội nghiên cứu Đông Dương năm 1942, đệ nhị tam cá nguyệt, thì “Prei Nokor là Sài Côn xứ, tức vùng chùa Cây Mai, Chợ Lớn ngày nay”. Bản đồ Trần Văn Học vẽ năm 1815 cũng có ghi ba chữ “Sài Côn xứ” tại vùng này. Còn trong danh xưng Kas Krobey làm cho ta liên tưởng đến Bến Nghé mà Trịnh Hoài Đức viết là “Ngưu chữ hà”, ông Thái Văn Kiểm kết luận. Riêng về Bến Nghé thì Sơn Nam lại nghiêng về “tiếng sấu kêu”. Sơn Nam dẫn Đại Nam nhất thống chí: “Nghé là tiếng sấu kêu”, “sấu kêu nghé ngọ như tiếng của trâu con” nên người ta “đặt tên chữ Ngưu Tân, Ngưu Chữ cho có vẻ văn chương” (Bến Nghé xưa - Sơn Nam).
Hai chữ “Sài Côn” xuất hiện trong Gia Định thành thông chí: “Tháng 2 năm Giáp Dần, đời vua Thái Tôn Hiếu Triết Hoàng đế (1674)… Tháng 6 báo thiệp lên vua. Triều nghị Nặc Thu là phái đích bèn phong làm chính quốc vương Cao Miên ngự trị tại thành Vương Luông (Oudong), còn Nặc Ông Nỗn làm phó quốc vương ngự trị tại thành Sài Côn” (Gia Định thành thông chí - Trịnh Hoài Đức). Theo ông Thái Văn Kiểm thì lẽ ra Trịnh Hoài Đức phải viết là “Sài Gòn nhưng vì chữ Hán không có chữ Gòn, hoặc một chữ gì có nghĩa là Gòn nên Trịnh Hoài Đức phải viết chữ Côn mà ta phải đọc là Gòn” (Tìm hiểu vài địa danh Nam Việt - Thái Văn Kiểm). Oudong, một địa danh mà tài liệu sau này thường dịch là “Vũng Luông” và Nặc Ông Nỗn được gọi là “Nặc Ông Nộn”. Riêng chữ “Côn” thì nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất đọc là “Gòn”. Riêng Mai Trinh Trịnh Quốc Thuận thì “Nói ông bà ta vì bí quá mà phải dùng chữ Hán có na ná âm Việt để dịch âm chữ Gòn ra Côn thì không ổn lắm” vì những năm 1778-1788 thì “chữ Nôm đã trưởng thành và phát triển” thì “không lẽ gì mà quan lại thời bấy giờ không viết được Gòn” (Vắn tắt về địa danh Sài Gòn - Mai Trinh Trịnh Quốc Thuận). Cũng theo Mai Trinh thì “người Việt lấy chữ Gòn (chữ Hán, âm côn, lại có bộ mộc chỉ cây gỗ) để đọc âm, viết cho chữ Gòn cây gòn. Khi người ta viết ghép hai chữ lại để chỉ Sài Gòn thì người đọc hay người dịch có thể nói đó là Sài Gòn hay Sài Côn, đều trúng cả”. Cuộc tranh cãi về hai chữ Sài Gòn hình như bắt đầu diễn ra vào năm 1960 cho tới nay chưa có hồi kết thúc!
(Chợ Bến Thành - Sài Gòn. Nguồn: www.baicadicungnamthang.net)
Dù là gì đi nữa, thì Sài Gòn cũng là địa danh đã có ít nhất từ giữa thế kỷ XVII và lưu dân Việt đã có mặt ở xứ này từ trước năm 1623 để khai phá, buôn bán đồng thời cũng là cái cớ để chúa Nguyễn “đặt trạm thu thuế”. Những lưu dân này, một mặt có thể là những người lưu lạc đến vùng đất mới vì miếng cơm manh áo, vì nạn cường hào ác bá ở địa phương, vì phiêu lưu… Mặt khác có thể cũng do muốn theo chân của công chúa Ngọc Vạn mà đi thử sức tìm tương lai ở vùng đất lạ.
Theo sử liệu của Campuchia, công chúa Ngọc Vạn tuy là vợ thứ của Chey Chetta II nhưng được phong làm hoàng hậu và là một hoàng hậu, sau đó là hoàng thái hậu, rất có quyền lực và uy tín trong hoàng gia của Chey Chetta II. Nguyên nhân chỉ có thể là triều đình Chey Chetta II, mà bản thân vua Chey Chetta II từng là con tin của nước Xiêm rất căm thù Xiêm, vì thế họ muốn dựa vào Việt Nam để chống lại quân Xiêm. Và công chúa Ngọc Vạn là người có tiếng nói được hưởng ứng từ các chúa Nguyễn. Chính vì thế, việc các lưu dân Việt vào khai phá, làm ăn, buôn bán ở Thủy Chân Lạp (Sài Gòn - Chợ Lớn và Nam Kỳ) và cả ở Campuchia đều khá dễ dàng. Hẳn là số người và việc làm ăn không nhỏ nên khi chúa Nguyễn đề xuất việc mở đồn thu thuế ở Prei Nokor và Kas Krobey đã được triều đình Chey Chetta II nhanh chóng chấp thuận.
Nguyễn Đình Đầu phỏng đoán “Sở thuế đó (Sài Gòn) tọa lạc trên đất chợ Cầu Kho (thuộc quận 1), ngay sát sông Sài Gòn cũ (mà Trịnh Hoài Đức ghi là sau đổi ra sông An Thông) tức rạch Bến Nghé nơi đầu đường Trần Đình Xu bây giờ”. Sở dĩ có phỏng đoán ấy là vì “đây xưa là kho Bốn Trấn ở tại nền cũ kho Quản Thảo cách phía nam thành 4 dặm rưỡi, năm Mậu Thân (1788) mở rộng thêm ra làm kho chung cho cả 4 trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh và Định Tường để thâu trữ thuế khóa, chi cấp lương bổng” (Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh). Mãi tới năm 1698, khi chúa Nguyễn cử Nguyễn Hữu Cảnh vào đất Gia Định đặt cơ sở hành chánh, chia đất Gia Định làm hai huyện Phước Long (từ Biên Hòa ra giáp Bình Thuận, bao gồm cả vùng Đồng Nai, Sông Bé, Bà Rịa) và Tân Bình (gồm Sài Gòn và các tỉnh miền Tây) thì khai sanh của Sài Gòn mới chính thức được đưa vào hệ thống hành chánh Việt Nam.
Nhưng hai chữ “Sài Gòn” xưa là tên của trung tâm Chợ Lớn ngày nay. “Chợ Sài Gòn nằm cách nam trấn thành khoảng 12 dặm, nằm hai bên quan lộ là đường phố lớn, ba đường xuyên thẳng giáp bến sông” (Trịnh Hoài Đức - Gia Định thành thông chí), còn trung tâm Sài Gòn hiện nay có tên là Bến Nghé.
Nguồn: Trần Nhật Vy. Từ Bến Nghé tới Sài Gòn. NXB. Văn hóa – Văn nghệ, 2015.