logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
Tuesday, 31 May 2016 02:19

Hoàng Đức Thắng. Phật giáo thời Trần qua tư tưởng của Tuệ Trung Thượng Sĩ và Điều Ngự Giác Hoàng

Người post bài:  Lê Thị Ninh

Additional Info

  • Tiêu đề:

    PHẬT GIÁO THỜI TRẦN QUA TƯ TƯỞNG CỦA TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ VÀ ĐIỀU NGỰ GIÁC HOÀNG

  • Tác giả:

    Hoàng Đức Thắng

Hoàng Đức Thắng. Phật giáo thời Trần qua tư tưởng của Tuệ Trung Thượng Sĩ và Điều Ngự Giác Hoàng

Dưới triều Lý, tăng sĩ (đặc biệt là các cao tăng) đóng vai trò rất quan trọng trong các công việc như giáo dục, ngoại giao và đường lối chính sách của nhà nước. Vì thế, triều Lý có những chức danh như quốc sư, tăng thống và tăng lục. Họ có vai trò quan trọng trong việc cố vấn, phò trợ nhà vua trong công việc chính sự của đất nước.

Sang tới nhà Trần, các vua đều rất giỏi, không chỉ về những môn học ngoại điển, mà cả giáo lý nhà Phật. Tinh thần từ bi, hỉ xả, hay từ bi, trí tuệ đã thấm sâu vào tâm khảm các vị vua anh minh nhà Trần. Chính các vua nhà Trần đã đưa Phật giáo vào đời (nhập thế) một cách hết sức tinh tế và hoàn hảo. Các bậc minh quân đều hiểu rất rõ trách nhiệm của mình đối với dân tộc và đất nước, cũng như trách nhiệm của một ông vua Phật tử. Vua đã có vai trò như giáo chủ, nên thời Trần không thấy có chức danh tăng thống, hay tăng lục như nhà Lý. Còn những chức danh quốc sư, đại sư chủ yếu là huân danh, hầu như không có vai trò thực sự đáng kể trong đời sống chính trị và xã hội.

 

Như vậy, cùng để đạt được một mục đích, ở thời Lý tác động của Phật giáo lên triều đình (nhà vua) mạnh mẽ hơn; còn ở triều Trần thì chính nhà vua lại có ảnh hưởng mạnh mẽ tới giới tu sĩ Phật giáo. Đó là hiện tượng vua quan triều Trần cúng dàng rất nhiều để xây dựng, tu bổ chùa chiền, in ấn kinh điển và đào tạo tăng tài. Ngoài ra, nhà Trần còn cúng tiền cho nhà chùa để làm việc từ thiện. Chỉ riêng sự kiện năm 1319, khi dân các lộ bị mất mùa, vua đã xuất kho riêng 100 lượng vàng và 500 lượng bạc, giao cho sư bố thí những kẻ nghèo đói. Việc vua trích quỹ kho giao cho các sư làm từ thiện là có ý muốn mượn tay chư tăng thực hiện tinh thần từ bi của Đức Phật. Đây là giai đoạn quan hệ giữa Phật giáo với nhà nước gắn bó rất mật thiết. Mặt khác, vua Trần cũng muốn nhân dân, phật tử khởi tâm tín Phật nhiều hơn, bởi cùng là món đồ bố thí, nhưng từ tay các sư tăng ban phát thì ảnh hưởng và ý nghĩa được nhân lên rất nhiều. Qua sự việc này có thể thấy, với tinh thần nhập thế, nhà Trần đã chủ trương đưa Phật giáo hội nhập sâu với đời sống xã hội. Điều ấy cũng có nghĩa uy tín của Phật giáo càng được coi trọng trong con mắt của người dân. Và, dựa vào Phật giáo, uy tín của nhà nước quân chủ cũng được nâng cao.

Làm từ thiện là công việc thường xuyên của Phật giáo. Đối với người tu hành, bố thí là phương tiện để trưởng dưỡng lòng từ bi. Hơn thế, làm từ thiện là một hình thức kết nối nhân tâm, nâng cao tinh thần bình đẳng bác ái trong xã hội. Công việc này đã trở thành một nét đẹp của văn hóa Việt Nam. Những tấm gương nổi bật tốt đời đẹp đạo của triều Trần như Tuệ Trung Thượng Sĩ, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Hai ngài là những nhân vật đại diện cho một triều đại mang đầy đủ những yếu tố đời và đạo.

Tuệ Trung Thượng Sĩ là một ngôi sao sáng trong rừng thiền, là bậc bồ tát sống cuộc đời nhập thế, nhưng lại không dính bụi trần. Là học trò đắc pháp với thiền sư Tiêu Dao, Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm sáng rõ tinh thần phật pháp bất ly thế gian giác, tức không thể lìa bỏ thế gian này mà có thể tìm được sự giải thoát giác ngộ. Ngài đã giác ngộ được yếu chỉ tu hành quan trọng đó. Là thầy của vua Trần Nhân Tông, Tuệ Trung xứng đáng là một tấm gương sáng cho vua. Vua Trần Thánh Tông đã hết sức kính trọng, tặng danh hiệu Thượng Sĩ, và gửi gắm con mình (Trần Nhân Tông) cho ông dạy dỗ. Vua Trần Nhân Tông từng viết: "...Một hôm tôi xin hỏi Ngài về "bổn phận của tông chỉ", Thượng Sĩ đáp: "Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được, (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc), nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thày"[1]. Đúng là chỉ có bậc Thượng Sĩ mới có thể dưỡng bồi lên một Đại Sĩ Trần Nhân Tông.

Tuệ Trung Thượng Sĩ tên thật là Trần Tung, được Thái Tông phong tước Hưng Ninh Vương. Trần Nhân Tông sau này có ca ngợi ông như sau: "Thượng Sĩ khí lượng uyên thâm, phong thần nhàn nhã. Tuổi còn để chỏm, ngài đã mến mộ cửa không. Sau ngài đến tham vấn thiền sư Tiêu Dao ở Tịnh Xá Phước Đường, Ngài lãnh hội được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy. Hằng ngày, ngài lấy thiền duyệt làm vui, không lấy công danh làm sở thích. Ngài lui về ở phong ấp Tịnh Bang, đổi tên là làng Vạn Niên. Hòa ánh sáng với thế tục, Ngài cùng mọi người chưa từng chống trái, nên hay làm hưng thịnh hạt giống chính pháp, dạy dỗ được hàng sơ cơ, người đến hỏi han, Ngài đều chỉ dạy cương yếu, khiến họ trụ tâm, tính tùy phương tiện khi hiện khi ẩn, trọn không có tên thật"[2].

Qua lời ca ngợi trên, có thể thấy Thượng Sĩ có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ đối với phật pháp, mà còn đối với cả triều đình. Trong các mối quan hệ, ngài đều biết vì nghĩa lớn. Trần Tung vốn là con của An Sinh Vương Trần Liễu, người đã uất hận vì bị Trần Thái Tông cướp mất vợ nên từng dấy loạn nhiều lần, nhưng ngài không vì vậy mà chống trái triều đình.

Tuệ Trung Thượng Sĩ từng làm quan, được cử giữ quân dân đất Hồng Lộ. Hai lần giặc phương Bắc xâm lược, ngài đều lập công, được thăng chức tiết độ sứ, giữ cửa biển Thái Bình. Đúng như danh hiệu bồ tát nhập thế mà Thánh Tông ban tặng, phong cách sinh hoạt của ngài thật tự tại, vượt qua phạm trù hay giới hạn. Trong lần về cúng chay cầu siêu cho hoàng hậu Thiên Cảm (1278), với sự tham dự của rất nhiều vị tôn thúc, trưởng lão của Thiền môn (lúc này, tư tưởng còn như nước đọng vũng bùn, theo lời thỉnh của Thánh Tông), Tuệ Trung đã viết bài kệ tỏ bày kiến giải về phật pháp của mình:

Viết kệ trình kiến giải

Như dụi mắt thấy quái

Dụi mắt thấy quái xong

Lại rỡ ràng tự tại

Ngay sau đó, vua Thánh Tông đọc xong phê tiếp:

Rỡ ràng và tự tại

Cũng một thứ thấy quái

Thấy quái mà không quái

Thì quái ấy tự hoại.

(Bản dịch của Nguyễn Lang)

Sự giác ngộ của Tuệ Trung Thượng Sĩ biểu hiện phá vỡ sự chấp trược, bám víu của chúng sinh. Người tu hành khi mới vào tu thì thấy cái gì cũng là khổ, như ma như quái, nhưng khi liễu ngộ và nắm bắt được quy luật sinh, trụ, dị, diệt của vạn pháp rồi, thì thấy sự an nhiên tự tại. Chúng sinh sợ hãi là do không nắm được quy luật, còn người nắm được quy luật rồi thì “sinh tử tức niết bàn, phiền não tức Bồ Đề” vậy.

Khi sinh thời có câu chuyện hoàng hậu Thiên Cảm mở tiệc chiêu đãi, bày cả đồ chay và đồ mặn vì nghĩ Thượng Sĩ là người tu hành. Nhưng trong bữa tiệc, Thượng Sĩ lại gắp cả đồ chay lẫn đồ mặn mà ăn, khiến cho hoàng hậu ngạc nhiên phải hỏi: “Anh tu thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được?” Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh, anh không cần thành Phật, Phật không cần thành anh. Em chẳng nghe cổ đức nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao?”

Rõ ràng Tuệ Trung Thượng Sĩ đã đạt được trình độ cao trong tu tập, đã vượt qua ranh định thế tục, mà đạt được tâm vô phân biệt của hàng Bồ Tát, không phải hạng người mới tập tu còn cần nghiêm trì giới luật để định tâm. Ở đây, Thượng Sĩ đã đạt được cảnh giới của cái tâm. Bởi Phật và chúng sinh chỉ khác nhau ở chỗ mê và ngộ, mê tức là chúng sinh, ngộ tức là Phật. Thượng Sĩ đã làm chủ được tâm của mình, không còn bị ngoại cảnh chi phối nữa, ngài đã trở về được với phật tính trong tâm của bản thân mình. Giới luật cũng được ví như chiếc bè, đưa chúng sinh vượt qua biển luân hồi, sinh tử, nhưng khi qua rồi, thì chiếc bè ấy đâu cần làm gì nữa. Thường thì khi các bậc cao tăng hay những bậc thày tại thế, đệ tử thường không biết được thày của mình đạt tới giác ngộ chưa. Chỉ khi viên tịch mới rõ được công lực tu hành của các bậc trưởng bối đó. Thượng Sĩ cũng vậy, sự kiện Ngài viên tịch được Trần Nhân Tông viết trong Hành trạng Thượng Sĩ: "Sau ngài bệnh ở dưỡng chân trang, chẳng ở trong phòng thất. Kê một chiếc giường gỗ ở giữa nhà trống, ngài nằm theo thế kiết tường, nhắm mắt mà tịch. Các người hầu và thê thiếp trong nhà khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt ngồi dậy, đòi nước súc miệng rửa tay, rồi quở nhẹ rằng: sống chết là lẽ thường, đâu nên buồn thảm luyến tiếc, làm nhiễu động tâm tính ta, nói xong, ngài an nhiên thị tịch, thọ 62 tuổi. Bấy giờ là ngày mùng một tháng tư năm Tân Mão, nhằm niên hiệu Trùng Hưng thứ 7 (1291) đời vua Trần Nhân Tông"[3].

Đệ tử nối pháp của Thượng Sĩ là Trúc Lâm Đại Đầu Đà Trần Nhân Tông. Tư tưởng và sự giác ngộ phật pháp của Thượng Sĩ đã ảnh hưởng rất lớn tới việc tu hành của vua Trần Nhân Tông.

Điều Ngự Giác Hoàng là con trưởng của vua Trần Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu, sinh ngày 11-11, năm Mậu Ngọ, Nguyên Phong thứ 8 (1258). Khi còn nhỏ, ngài đã có khí chất tinh anh bậc thánh nhân, thuần túy, đạo mạo, sắc thái như vàng, thể chất hoàn hảo, thần khí tươi sáng, mọi người gọi là Kim Đồng Tử. Ngài ở ngôi 14 năm, nhường ngôi 5 năm, xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, băng ở am Ngọa Vân núi Yên Tử, sau đưa xá lợi, một phần táng ở Đức lăng, một phần táng tại bảo tháp trên Yên Tử. Vua nhân từ hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trùng hưng sáng ngời thuở trước, được các sử gia đánh giá là bậc vua hiền của thời nhà Trần.

Đối với xã hội, Giác Hoàng đã làm tròn bổn phận của một người con có hiếu, một vị vua anh minh, một anh hùng kiệt xuất. Đối với Phật giáo, ngài là một phật tử thuần thành, một bậc chân tu cẩn mật tinh tiến, vị tổ của phái Trúc Lâm Yên Tử, và cũng là người gây dựng một nền Phật giáo thống nhất. Thế danh của ngài là Trần Khâm, thụy hiệu Trần Nhân Tông, pháp danh Hương Vân Đầu Đà, sau đổi là Trúc Lâm Đầu Đà. Pháp danh này được Nguyễn Lang lý giải như sau: "Đã đành Trúc Lâm thờ Tuệ Trung làm thày, nhưng khi xuất gia thọ 250 giới của một vị Tỳ kheo thì Tuệ Trung, vốn là cư sĩ, không thể truyền giới cho vua được. Ai là hòa thượng trao truyền giới pháp cho Trúc Lâm, và vua thọ giới ở đâu? Hẳn người làm hòa thượng đường đầu truyền giới là thiền sư Huệ Tuệ, lúc ấy đang lãnh đạo sơn môn Yên Tử, tổ sư thứ 5 của thiền phái. Và lễ thọ giới xuất gia của Trúc Lâm chắc chắn được tổ chức trên núi Yên Tử"[4].

Như vậy, Ngài là vị tổ thứ 6 của dòng thiền Yên Tử, còn đối với Trúc Lâm, được coi là sư tổ. Bởi vậy, sau khi xuất gia thọ giới, ngài lấy pháp danh là Trúc Lâm Đầu Đà. Sau khi ngài nhập diệt, vua Anh Tông đã tôn là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật. Sách Tam tổ hành trạng lại cho rằng ngài “tự đặt pháp hiệu là Điều Ngự Đầu Đà”. Còn trong Tam tổ thực lục thì dịch giả Thích Phước Sơn dịch: “tự xưng hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ”. Chúng tôi cho rằng cả hai hiệu này rất ít khả năng ngài tự nhận hay tự xưng, mà là do người sau gọi theo tôn hiệu mà vua Trần Anh Tông đã tôn xưng. Trần Nhân Tông là người tu hành cẩn mật, khiêm nhường, vì Điều Ngự hay Đại Sĩ là danh hiệu chỉ chung cho các bồ tát, giống như Thượng Sĩ vậy. Thậm chí trong kinh Kim Quang Minh còn coi Phật cũng là Đại Sĩ. Danh xưng Điều Ngự cũng là một trong 10 hiệu của đức Phật. Đó là Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Tuệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Vua Trần Nhân Tông đã hoàn thành trọn vẹn cả hai trách nhiệm đời và đạo. Ngài rất quan tâm tới cuộc sống của nhân dân, chăm lo tới văn hóa và thuần phong mỹ tục. Trong thời gian ở ngôi, ngài đã thể hiện rõ tinh thần của một ông vua phật tử, thường đi chu du khắp các đạo, loại bỏ những ngôi đền thờ quỷ thần không chính đáng và bố thí, ban phát thuốc men cho dân gian. Khi đất nước lâm cảnh chiến tranh, ngài lại tỏ rõ phẩm chất của một vị vua anh hùng giàu lòng yêu nước thương dân, nhưng vẫn tràn đầy tinh thần từ bi và trí tuệ của một người tu Phật. Ngài rất tin tưởng vào luật nhân quả và nghiệp báo. Tinh thần này nhà vua tiếp thu được từ Tuệ Trung Thượng Sĩ. Có thể thấy rõ điều này qua câu chuyện được thuật lại trong Thượng Sĩ ngữ lục:

Nhân Tông hỏi: "Chúng sinh do nghiệp uống rượu ăn thịt, làm sao thoát khỏi tội báo?"[5]. Thượng Sĩ bảo: "Giả sử có người đứng xây lưng lại, chợt có vua đi qua sau lưng, người kia thình lình hoặc cầm vật gì ném trúng vua, người ấy có sợ không? Vua có giận chăng? Như thế nên biết, hai việc này không liên hệ gì nhau", Thượng Sĩ liền đọc kệ để dạy:

Vô thường các pháp hạnh

Tâm nghi tội liền sinh

Xưa nay không một vật

Chẳng giống cũng chẳng mầm

Ngày ngày khi đối cảnh

Cảnh cảnh từ tâm sinh

Tâm cảnh xưa nay không

Chốn chốn Ba la mật

Tôi lãnh hội ý chỉ hai bài tụng, giây lâu hỏi: "Tuy nhiên như thế, vấn đề tội phước đâu đã rõ ràng". Thượng Sĩ lại dùng kệ giải rõ:

Ăn rau cùng ăn thịt

Chúng sinh mỗi sở thuộc

Xuân về trăm cỏ sinh

Chỗ nào thấy tội phúc

Tôi thưa: "Chỉ như giữ gìn giới hạnh trong sạch, không chút xao lãng lại thế nào?"

Thượng Sĩ cười không đáp, tôi lại thỉnh cầu, ngài lại nói hai bài kệ để ấn định:

Giữ giới cùng nhẫn nhục

Chuốc tội chẳng chuốc phúc

Muốn biết không tội phúc

Chẳng giữ giới nhẫn nhục

Như khi người leo cây

Trong an tự cầu nguy

Như người không leo cây

Trăng gió có làm gì?

Ngài lại dặn nhỏ tôi: "Chớ bảo cho người không ra gì biết"[6]. Ở đây, người không ra gì, không phải người tu, hay không hiểu đạo. Chỉ có người hiểu được chân lý nhân quả, đã giác ngộ được nhân ngã mới có thể nói như vậy. Nhân Tông tuy đã hiểu, nhưng còn đang tu nên cần phải giữ nghiêm giới luật, nhất là giới sát sinh. Đứng trước nguy cơ chiến tranh, ngài phải suy tính để làm sao tội sát sinh được giảm nhẹ tối đa. Tuy là vua nhưng ngài lại là một phật tử đang tu hành. Một đệ tử của Phật thì đương nhiên là mong muốn thế giới hòa bình, không có chiến tranh loạn lạc, mọi chúng sinh đều được sống trong an lành và hạnh phúc. Ngài thấu hiểu nghiệp báo của chúng sinh bắt nguồn từ thân, khẩu và ý, trong đó ý thức là quan trọng nhất, là dẫn đầu các pháp. Ý chính là tâm vương. Nếu chỉ có khẩu nghiệp và thân nghiệp tạo tác mà không khởi ý sát sinh, thì tội đó sẽ không đủ duyên để phải trả quả báo. Không phải vô cớ mà ngài đã hai lần lấy ý kiến của toàn quân và dân. Một lần lấy ý kiến các tướng lĩnh tại Bình Than. Và, một lần lấy ý kiến các bô lão đại diện cho toàn dân tại điện Diên Hồng. Sau khi cả quân và dân đều thể hiện ý chí đồng tâm quyết đánh, ngài mới cho bày binh đánh giặc. Như vậy, quân sĩ chỉ nói và hành động thì không phải chịu quả báo, còn ngài chỉ huy đánh cũng là vì dân tộc, vì độc lập tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì sự an lạc cho tất cả chúng sinh, chứ thực chất ngài không hề khởi tâm sát sinh, dù đó là ai. Câu chuyện Trần Nhân Tông bất đắc dĩ sai người đưa công chúa An Tư (em gái út của Thánh Tông) đến cho Thoát Hoan cũng là muốn làm thư giãn nạn nước.

Đến sự kiện năm 1306, vua Trần Nhân Tông gả con gái là công chúa Huyền Trân cho quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân cũng có liên quan đến tấm lòng từ bi của ngài. Thái thượng hoàng Nhân Tông rất hiểu, nếu Chiêm Thành thuần phục, có quan hệ bang giao gần gũi thì Đại Việt có được chỗ dựa ở phía Nam vô cùng quan trọng. Nếu lại xảy ra một cuộc chiến với phong kiến phương Bắc thì sẽ không phải lo nhiều đến việc phòng thủ phía Nam. Đây là một tính toán lâu dài có tầm chiến lược cho dân tộc, cũng là để giữ hòa hiếu giữa hai nước, tránh không để có sinh mạng phải chết oan uổng. Nó thể hiện tấm lòng của bồ tát, chứ chẳng phải cái tâm của người thường.

Điều Ngự Giác Hoàng là người rất chú trọng đào tạo những thế hệ cho tương lai, cho cả đời và đạo. Sự kiện ngài dạy vua Anh Tông có thể coi là một câu chuyện điển hình về sự giáo dục, tu tâm. Sau khi được nhường ngôi, vua Anh Tông có lần do say rượu quên cả thiết triều đúng vào dịp ngài về kinh đô. Ngài đã giáo huấn cho Anh Tông rất nghiêm khắc và may nhờ tài trí của Đoàn Nhữ Hài, vua mới được tha tội. Sau khi Anh Tông đã thuần trở lại, Điều Ngự đã chấp thuận thụ bồ tát giới cho vua vào năm 1304. Đây là giới cao nhất của hàng cư sĩ tại gia. Sự kiện thọ bồ tát giới của vua Anh Tông đã ảnh hưởng rất lớn tới đạo đức của các quan viên trong triều.

Điều Ngự là người hết lòng lo cho tiền đồ của Phật giáo. Ngay khi mới gặp Đồng Kiên Cương (sau là đệ nhị tổ Trúc Lâm Pháp Loa tôn giả) đến xin xuất gia, Điều Ngự đã nói: "Đứa bé này có đạo nhãn, sau này hẳn là bậc pháp khí", rồi chấp thuận cho làm đệ tử và đặt tên là Thiện Lai. Chỉ trong thời gian từ 1304 đến 1307, Pháp Loa đã được đào tạo từ một thiện nam trở thành một giảng sư. Sau này, ông trở thành người kế đăng của phái Trúc Lâm, đồng thời là cột trụ của giáo hội thời Trần.

Từ một Hoàng đế, Trần Nhân Tông cởi bỏ long bào để khoác tấm cà sa thật tự nhiên và thanh thoát; bỏ cung vàng, điện ngọc, danh lợi của thế gian thật nhẹ nhàng. Sự vĩ đại, sự cao siêu của bậc chứng ngộ, công đức tu hành vô lượng của Điều Ngự Giác Hoàng đã được chứng minh bằng hàng trăm viên xá lợi khi làm lễ trà tỳ (hỏa táng).

 


[1] [2] [3] [6] Hòa thượng Thích Thanh Từ, Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục - giảng giải, Thiền viện Thường Chiếu ấn hành, TP.HCM, 1996, tr.59, 76, 64, 61. Trong đó Hòa thượng Thanh Từ dịch “Vua Thánh Tông nghe danh ngài đã lâu, bèn sai sứ mời vào của khuyết”, phần dịch này chắc nhầm, vì Tuệ Trung là anh vợ của vua Thánh Tông, đồng thời vua Thánh Tông còn gửi gắm Trần Nhân Tông để nhờ Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy dỗ. Có điều theo Nam Tông tự pháp đồ thì, Thánh Tông học pháp từ Đại Đăng, còn Tuệ Trung học pháp từ Tiêu Diêu, tức là Tuệ Trung Thượng Sĩ thuộc hàng cháu trong đạo của vua Thánh Tông.

[4]Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1994, tr.281

[5]Lý do đặt câu hỏi này được chính Nhân Tông ghi trong Thượng Sĩ ngữ lục do ngài soạn, có đoạn viết: “Riêng tôi, nay cũng nhờ ơn Thượng Sĩ dạy dỗ. Lúc tôi chưa xuất gia, gặp tuần tang của Đinh Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân thỉnh Thượng Sĩ. Thượng Sĩ trao cho tôi hai quyển Lục Tuyết Đậu và Dã Hiên”.

 

Nguồn : Tạp chí VHNT số 332, tháng 2-2012

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Vài nét về văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung Việt Nam

  • Trần Thị Xuân. Lược sử về cư dân thời tiền Đại Việt

  • Trần Thị Xuân. Xây dựng nền văn hóa thống nhất thời đầu Đại Việt

  • Thu Quỳnh. Nghiên cứu đa dạng di truyền hệ gene người Việt Nam: Những viên gạch đầu tiên

  • Bảo Như. Mở lối độc đạo để vẽ quá khứ

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 479
  • Tổng :
  • 3 7 7 8 1 3 2 5
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam