Với mật độ di tích văn hóa Óc Eo tập trung khá cao ở Long An[1] (khoảng 100 địa điểm đã được thống kê), nơi đây được xem là một trong ba trung tâm lớn của văn hóa Óc Eo, đó là vùng Óc Eo (Ba Thê - An Giang), Gò Tháp (huyện Tháp Mười - Đồng Tháp) và vùng lưu vực sông Vàm Cỏ (Long An) - với đặc trưng của một nền văn hóa sông - rạch, đồng thời được nhận định rằng đây có thể là địa bàn quan trọng của quá trình hội nhập của cư dân - văn hóa bản địa và ngoại nhập, là vùng phát triển năng động nhất, cửa khẩu mở ra cho sự hội nhập ấy hẳn là Soài Rạp - Cần Giuộc[2].
Nhìn chung, các di tích khảo cổ học ở Long An, trong đó có các di tích văn hóa Óc Eo - với các sưu tập di vật vô cùng phong phú và đặc sắc, cùng với các loại hình di tích lịch sử - văn hóa khác trong tỉnh đã phát huy được tác dụng tích cực trong việc giáo dục truyền thống lịch sử - văn hóa địa phương cho thế hệ trẻ, góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc và tuyên truyền giới thiệu giá trị di sản văn hóa địa phương đối với khách tham quan, du lịch.
Thông qua kết quả nghiên cứu di tích, di vật thuộc văn hóa Óc Eo trên địa bàn Long An, giá trị văn hóa Ấn Độ đã được ghi nhận qua những yếu tố cơ bản như kiến trúc, tôn giáo - tín ngưỡng, nghệ thuật tượng tròn, nghệ thuật chạm khắc trên vàng và bia ký - minh văn.
1. Về kiến trúc đền, tháp
Kiến trúc đền, tháp thuộc văn hóa Óc Eo được xây dựng bằng gạch, đá và gỗ. Gạch chỉ mới được dùng vào khoảng đầu Công nguyên với sự du nhập của văn minh Ấn Độ (gạch Óc Eo có kích thước phổ biến là dài = 2 rộng = 4 dày, là tỷ lệ chuẩn của gạch Ấn Độ), nhưng viên gạch Ấn Độ chỉ du nhập vào Óc Eo dưới hình thức kỹ thuật làm gạch, vì gạch ở đây được chế tác tại chỗ với loại sét bản địa. Gắn liền với kiến trúc, những nghệ nhân làm mộc, chế tác đá, nhà điêu khắc, thợ làm gốm và đồ đất nung, trong đó một số đã trở thành bậc thầy, cùng những tu sĩ uyên bác đã tham gia vào việc làm tượng thờ, vật thờ, những cấu kiện trang trí bằng hoa văn và những yếu tố trang trí bằng đất nung, những minh văn bằng Phạn ngữ. Họ đã góp phần không nhỏ vào các công trình xây dựng, mà một số đã vượt qua thử thách của thời gian (Võ Sĩ Khải, 2008, tr.52).
Ở Long An, khu di tích kiến trúc Gò Đồn, Gò Xoài và Gò Năm Tước được đánh giá là khu di tích quan trọng của văn hóa Óc Eo. Khu di tích này còn được gọi là khu di tích Bình Tả, thuộc xã Đức Hòa Hạ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, nằm về phía đông bắc thành phố Tân An. Cách Tân An 40km theo lộ trình Tân An - Bến Lức - thị trấn Đức Hòa và nằm cách tỉnh lộ 825 tầm 800m về phía đông.
Nằm trong một tổng thể di tích khảo cổ học với hơn 60 địa điểm đã được khảo sát, tập trung trên địa bàn huyện Đức Hòa và được lập danh mục quản lý - bảo vệ, khu di tích Bình Tả là một cụm gồm 17 phế tích kiến trúc và di chỉ cư trú phối hợp với một hệ thống bàu nước cổ ở xung quanh.
Từ phát hiện đầu tiên của nhà khảo cổ người Pháp: Henry Parmentier vào năm 1910; năm 1931 J.Y. Claeys khai quật một di tích kiến trúc bằng gạch xây ở phía tây nam cụm di tích này (Gò Tháp Lấp), đến nay di tích này đã bị hủy hoại, di vật bị thất lạc. Trong hai năm 1987-1988, Sở Văn hóa - Thông tin[3] Long An phối hợp với Viện Khoa học Xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh[4] khai quật ba di tích này.
1.1. Di tích Gò Đồn
Là loại kiến trúc đền xây bằng gạch, chiều dài đông tây 78,5 mét; chiều ngang chỗ rộng nhất (bắc nam) 60 mét, toàn bộ kiến trúc trước khi khai quật đều nằm trong lòng đất, chỗ gần mặt đất nhất là 0,4 mét. Cuộc khai quật đã thu thập được nhiều hiện vật bằng đá như tượng thần giữ đền (Dvarapala), đầu tượng phúc thần (Ganesa), nhiều vật thờ như linga, yoni, máng dẫn nước thiêng (somasutra), bàn nghiền hương liệu (pesani), mi cửa chạm trổ hoa văn thực vật, trụ đá chạm trổ hoa văn thực vật,… và nhiều đồ gốm cổ. Trong hố thờ trung tâm của kiến trúc sâu khoảng 3 mét còn có một linh vật (yoni) đã vỡ và nhiều viên đá cuội, được đoán định là đá thờ.
Với kiểu dáng kiến trúc và những linh vật được phát hiện trong lòng di tích, di tích Gò Đồn được nhìn nhận có đặc trưng của một kiến trúc đền thần Shiva quy mô lớn thuộc Ấn Độ giáo, theo truyền thống văn hóa Óc Eo[5].
1.2. Di tích Gò Xoài
Là một di tích kiến trúc xây bằng gạch, có dạng gần vuông với mỗi cạnh dài khoảng 20 mét, nền móng của kiến trúc có cấu tạo rất rắn chắc và phức tạp, gồm nhiều loại vật liệu khác nhau như cuội ba-dan (basalt), sỏi đỏ, cát trắng, cát hồng,…
Kiến trúc Gò Xoài có hố thờ hình vuông, cạnh 2,2 mét; sâu trên 2,5 mét, ở gần đáy hố thờ đã phát hiện được tro xương và một sưu tập hiện vật quý giá gồm nhiều mảnh vàng nhỏ, mỏng khắc chạm hình hoa sen và những linh vật như rùa, rắn, voi, những chiếc nhẫn, mề đay bằng vàng chạm đá quý và một bản minh văn Phạn ngữ (Sanskrit-Pali), gồm 5 dòng, ghi những lời kinh Phật. Dạng mẫu tự trên minh văn được nhận định thuộc mẫu tự Nam Ấn (Deccan), thế kỷ VIII-IX sau Công nguyên. Qua phát hiện trên, kiến trúc Gò Xoài được nhận định là một di tích tháp của Phật giáo[6].
1.3. Di tích Gò Năm Tước
Là một di tích kiến trúc xây bằng gạch dài 17,2 mét; rộng 11 mét, phần trên của kiến trúc đã bị mất nhưng ở phần nền móng còn giữ được những đặc điểm của kiến trúc thuộc văn hóa Óc Eo như bình đồ hình chữ nhật bẻ góc nhiều lần và cân xứng nhau qua trục bắc - nam, các đường móng gạch rất thẳng, mặt chính của kiến trúc có hình tam quan hình bán nguyệt hướng về phía đông,… là cơ sở để nhận định rằng đây là một kiến trúc đền thờ Ấn Độ giáo.
Có thể nhận thấy rằng, khu di tích Bình Tả là một cụm di tích khảo cổ học quy mô lớn thuộc văn hóa Óc Eo. Căn cứ trên các sưu tập di vật, dạng thể và quy mô của các kiến trúc và nhất là nội dung của bản minh văn Gò Xoài, có thể nhận định rằng đây là trung tâm chính trị - quyền lực - tôn giáo của cư dân Óc Eo xưa.
Niên đại chung của khu di tích Bình Tả được phỏng định dựa trên tuổi tuyệt đối (C14) của chiếc trục bánh xe cổ làm bằng gỗ, phát hiện trong một bàu nước cổ bên cạnh di tích Gò Sáu Huấn (thuộc phạm vi khu di tích Bình Tả): 1.588 ± 65 năm cách ngày nay.
Với quy mô lớn trên toàn khu vực, cụm di tích khảo cổ học Bình Tả có một vị thế trung tâm trên vùng đất phù sa cổ thuộc vùng Đức Hòa - Đức Huệ (Long An) mà trung tâm này có thể có mối quan hệ rất gần với các di tích: Thanh Điền (Tây Ninh), Angkor Borei, Phnom Da, Ba Phnom, Sambor Preikuk ở mạn đông nam lãnh thổ Vương quốc Campuchia. Khu di tích khảo cổ học Bình Tả đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia tại quyết định số 1570/VH-QĐ ngày 5/9/1989.
2. Tín ngưỡng
Bên cạnh các kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng của các cộng đồng cư dân cổ còn được thể hiện thông qua tục thờ người chết, nghi thức chôn đồ tùy táng cho người quá cố, những loại hạt chuỗi và bùa đeo bằng chất liệu thủy tinh, đá quý và xương – sừng động vật.
Tràng hạt khởi nguồn từ Ấn Độ và đã trở thành một vật quan trọng trong đời sống tín ngưỡng, văn hóa của tín đồ các tôn giáo và trong xã hội Ấn Độ cổ. Người ta có thể thấy, pháp môn lần tràng hạt niệm Phật của Phật giáo rất gần gũi với phương pháp lần tràng hạt trong lúc cầu nguyện của Bà-la-môn giáo, một lối cầu nguyện rất thịnh hành của những vị Bà-la-môn. Bên cạnh đó, người Ấn giáo theo phái thờ thần Shiva cũng dùng một loại hạt gọi là rudrāka để xâu thành tràng hạt. Dưới đây là các sưu tập hiện vật liên quan đến hạt chuỗi và bùa đeo phát hiện trên địa bàn Long An.
2.1. Hạt chuỗi bằng thủy tinh
Tại các di chỉ cư trú thuộc văn hóa Óc Eo như: Gò Dung, Gò Đế, Gò Hàng,… các nhà khảo cổ đã thu thập được trên 7.000 hạt chuỗi bằng thủy tinh nhiều màu sắc với các loại hình tương tự như loại chuỗi ngọc (hình cầu, hình trụ tròn, hình bầu dục, hình kim tự tháp, hình trụ đáy lục giác, hình đốt trúc, hình nón cụt, hình vuông dẹt, hình chữ nhật dẹt, hình thoi dẹt, hình cầu dẹt, hình quả lê, hình chì lưới,...).
Trong số lượng lớn hạt chuỗi thủy tinh thì loại hình cơ bản nhất, chiếm số lượng nhiều nhất là loại hạt chuỗi “Indo-Pacific”. Tên gọi này dùng để chỉ loại hình hạt chuỗi nhỏ, nhiều màu sắc, kỹ thuật chế tác nguyên thủy là ở Ấn Độ rồi sau đó được chuyển tải đến các quốc gia khác ở Nam Ấn trong thiên niên kỷ I trước Công nguyên. Kỹ thuật làm hạt chuỗi thủy tinh này được gọi là “kỹ thuật kéo ống Lada (Lada technique)” (Francis P., 1982). Đây là kỹ thuật sản xuất ra hàng loạt hạt chuỗi thủy tinh từ một ống thủy tinh có lỗ rỗng kéo ra trong quá trình nấu thủy tinh. Thủ thuật thành công là ở chỗ, người thợ phải có kinh nghiệm nhận biết khi nào độ chảy của thủy tinh đến độ kéo để nó không bị dính. Những hạt chuỗi chế tác từ kỹ thuật này được Francis Peter gọi là hạt chuỗi loại Indo-Pacific.
Trong cuộc khai quật di tích Gò Ô Chùa năm 2005, những người khai quật đã phát hiện những mảnh nhỏ của ít nhất 7 hạt chuỗi hình khuyên bằng thủy tinh màu xanh lá cây nhạt (có đường kính khoảng 1cm), đặc biệt có một hạt chuỗi bằng thủy tinh màu lục (nhạt), hình trụ 6 mặt - hơi thót ở hai đầu (dài 2,3cm; đường kính 1,3cm).
Ian Glover, khi nghiên cứu về “Con đường tơ lụa trên biển ở Đông Nam Á” (Ian C. Glover, 1996) đã cho rằng những hạt chuỗi thủy tinh hình trụ 6 mặt, màu lục trong suốt, có kích thước lớn được cho rằng có nguồn gốc từ Ấn Độ, những người thợ chế tác thủy tinh ở đây vào thuở ấy đã nhại theo hình dạng và màu sắc của ngọc Beryl[7] nổi tiếng của Nam Ấn - rất phổ biến trong văn hóa Phật giáo cũng như trong thế giới Địa Trung Hải. Có rất ít loại hình hạt chuỗi thủy tinh kiểu Beryl được tìm thấy ở nơi khác ngoài các di chỉ thuộc vùng Đông Nam Á (Óc Eo, Ban Chiang, Ban Don Taphet và Pasemath - nam Sumatra).
Ở Đồng bằng sông Cửu Long, ngoài Óc Eo (An Giang), tại Long An có vài hạt chuỗi thủy tinh kiểu Beryl được phát hiện tại Gò Hàng và lần này có thêm một hạt chuỗi cùng loại được phát hiện ở Gò Ô Chùa. Điều này gợi ý rằng trong cộng đồng cư dân cổ ở Gò Ô Chùa - Đồng Tháp Mười, bên cạnh yếu tố tín ngưỡng thể hiện qua táng thức, đồ gốm kiểu bát mâm bồng,… yếu tố Phật giáo dường như đã xuất hiện thông qua các hạt chuỗi thủy tinh kiểu Beryl (Gò Ô Chùa, Gò Hàng), hạt chuỗi vẽ axít (etched beads) hình chữ vạn (swastika), cây cuộc sống và kiến thức (asvattha); hình tượng sư tử bằng kim loại; đồng tiền có hình bánh xe pháp luân (phát hiện ở Gò Hàng - Vĩnh Hưng - Long An), khá sớm so với niên đại của những pho tượng Phật giáo bằng gỗ và bằng đá, đã từng được ghi nhận trước đây (Bùi Phát Diệm và cộng sự, 2001).
Riêng loại hình hạt chuỗi rất nhỏ màu gạch, xương đục (không trong như hạt chuỗi thủy tinh thông thường) thì thuộc loại hạt chuỗi Multisalah. Loại này rất phổ biến ở vùng Đồng Tháp Mười, Giồng Lớn (Bà Rịa – Vũng Tàu), các di tích văn hóa Sa Huỳnh, các di tích tiền Óc Eo ở Nam Bộ, Campuchia thời kỳ tiền Angkor Borei, Thái Lan thời kỳ Ban Don Ta Phet hay Kao Sam Kaeo. Loại hạt chuỗi này cũng có mặt ở Philippines, Indonesia và Malaysia. Ở Bali, trong khu vực di tích Sembiran và Pacung, thuộc vùng bờ biển phía đông nam Bali, các cuộc khai quật gần đây cho thấy nhiều chứng cớ về loại thủy tinh này (I. Wayan Azdika, 1994). Đặc biệt những hạt chuỗi thủy tinh loại hình Multisalah màu đỏ thổ hoàng tìn thấy ở khu vực này, sau khi được phân tích thành phần cho biết chúng thuộc hai loại thủy tinh, một loại là thủy tinh hỗn hợp giàu Kali và phần lớn là thuộc loại hình thủy tinh Potash (Kali-Carbonat).
Theo các tài liệu trước đây (Francis P., 1990) loại thủy tinh này là đặc trưng của khu vực Nam Ấn, đặc biệt là ở Arikamedu, cuộc khai quật gần đây nhất ở địa điểm này đã cho thấy nhiều bằng chứng hơn về quy trình chế tác thủy tinh tại chỗ và quy mô khá lớn của nó cũng như chuỗi thời gian kéo dài của nghề thủy tinh chuyên hóa này tại Arikamedu (Bùi Chí Hoàng và cộng sự, 2012).
2.2. Hạt chuỗi bằng đá quý
Bộ sưu tập hạt chuỗi bằng đá quý gồm khoảng 700 hạt, với gần 20 loại hình khác nhau được chế tác từ 6 loại đá ngọc khác nhau, gồm: mã não (agate), hồng mã não (carnelian), thạch anh (crystal rock), tử ngọc (amethyst), hồng ngọc (garnet), nê-frít (nephrite).
Đáng lưu ý trong sưu tập này là những hạt chuỗi mã não được chạm trổ (etched bead), một hạt chuỗi chạm nổi hình con rùa, hạt chuỗi hình chì lưới (collared bead) và những hạt chuỗi hồng ngọc, hồng mã não kích thước lớn - được gia công rất hoàn chỉnh và mỹ thuật.
Ngoài ra, có một số hạt chuỗi chưa được gia công hoàn chỉnh như hai hạt mã não (agate) chưa có lỗ khoan, hai hạt chuỗi thạch anh (crystal rock) chưa được khoan lỗ hoàn chỉnh; cùng với nhiều hạt chuỗi mã não, hồng mã não bị vỡ trong quá trình gia công, thể hiện rằng chúng đã được gia công tại chỗ.
Trong bộ sưu tập có ba hạt chuỗi được chạm trổ (vẽ axít):
+ Hạt chuỗi mã não đen (agate) có họa tiết hình chữ vạn (Swastika) - biểu tượng của mặt trời - tương tự như họa tiết trên một hạt chuỗi hồng mã não hình cầu được phát hiện trước đây ở di chỉ Arka [miền Bắc Ấn Độ] (M.G. Dikshit,1949). Họa tiết trên còn được ghi nhận trên một hạt chuỗi hồng mã não hình bầu dục cụt hai đầu được phát hiện gần đây ở di chỉ Khlong Thom [miền Nam Thái Lan] (Mayuree Veraprasert, 1992).
+ Hạt chuỗi mã não đen (agate) có họa tiết ba đường sóng nước song song tương tự như các hạt chuỗi được phát hiện trước đó ở Ấn Độ (M.G. Dikshit,1949) và gần đây tại Ban Don Ta Phet và Khao Sam Kaeo [miền Nam Thái Lan] (Ian C. Glover, 1996).
+ Hạt chuỗi hồng mã não (carnelian) có họa tiết chim và cây lá (cây cuộc sống và kiến thức - asattha) phát hiện ở Gò Hàng, theo Peter Francis Jr. giám định (1995), có nguồn gốc ở miền Nam Ấn Độ.
Những hạt chuỗi mã não được chạm trỗ (vẽ axít) bằng những vạch màu trắng như ở Đồng Tháp Mười (Long An) đã từng được phát hiện trước đây tại di chỉ Óc Eo -An Giang - (L. Malleret, 1960), Giồng Phệt và Giồng Cá Vồ - Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh - (Nguyễn Kim Dung và cộng sự, 1995).
+ Hạt chuỗi tử ngọc (amethyst) hình chì lưới (collared bead) cùng một số hạt chuỗi thủy tinh có dạng tương tự cũng là hiện vật đáng lưu ý, đây là loại hình hạt chuỗi đặc trưng được sản xuất đầu tiên ở Arikamedu (Ấn Độ) vào khoảng thế kỷ thứ III trước Công nguyên đến thế kỷ thứ III Công nguyên (Peter Francis Jr., 1996).
Có một hạt chuỗi hồng mã não chạm nổi hình con rùa duy nhất trong bộ sưu tập, theo đối chiếu, nó tương tự như những hạt chuỗi được phát hiện ở các di chỉ Óc Eo (An Giang), U Thong và Suphanburi [Thái Lan] (Ian C. Glover, 1996). Hình tượng con rùa rất phổ biến trong văn học Ấn Độ. Nó được xem là hậu thân thứ hai trong mười kiếp của Indra (Thượng đế) và là con vật cưỡi của nữ thần sông Yamunã. Đối với bùa đeo hình rùa, nó có thể là biểu tượng cho sự mắn đẻ hay một loại bùa mê. Đặc biệt ở Ấn Độ, nhiều loại hạt chuỗi hình con rùa đã được phát hiện rất nhiều (Bảo tàng Allahabad và Patna, Bharat Kala Bravan, Benares) chế tác bằng mã não, hồng mã não, thạch anh, vân thạch [Jasper] (G.R. Shakma, 1969).
Có thể nhận định rằng, những hạt chuỗi bằng đá ngọc được chế tác hoàn chỉnh có nguồn gốc từ Ấn Độ. Bên cạnh đó, cư dân cổ vùng Đồng Tháp Mười có thể đã dùng nguyên liệu ngoại nhập để chế tác hạt chuỗi và đồ trang sức nói chung, phục vụ cho nhu cầu của địa phương.
2.3. Bùa đeo làm bằng xương - sừng
Các chất liệu xương - răng - sừng động vật cũng được chế tác làm bùa đeo, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của cư dân bản địa.
+ Bùa đeo bằng sừng (ký hiệu 05LG H1L1e3:1), hình chữ nhật dẹt, mặt lưng phẳng, mặt trước cong lồi, nổi sống ở giữa lưng. Trên đầu có ba lỗ xuyên dây. Thân có nhiều vết chấm tròn tạo thành hai băng đồ án, trên đầu là hai cung chữ C ngược nhau, dưới chân là một dải chấm thẳng hàng. Kích thước: dài 7,6cm; rộng 2,3cm; dày 0,7cm.
+ Bùa đeo bằng xương (ký hiệu 05LG H1L6:176), hình tròn, một mặt bằng, mặt đối diện tròn đều, mài nhẵn bóng, tiết diện ngang thân hình chữ D, giữa có lỗ xâu dây đeo. Kích thước: đường kính ngoài 2,4cm; lỗ trong 0,7cm; dày 0,3cm.
+ Bùa đeo làm bằng mai rùa [hiện vật ký hiệu 06.OCH.H-2.L4(1)], được mài nhẵn bề mặt dưới và các cạnh bên, tạo thành hình lục giác. Kích thước: dài 7,0cm; rộng 4,2cm.
+ Bùa đeo làm bằng mai rùa [ký hiệu 06.OCH.H-2.L4 (2)], một cạnh bên được mài nhẵn, hai cạnh khác bị gãy. Lúc còn nguyên vẹn, có lẽ cũng có hình lục giác như hiện vật kể trên. Kích thước: dài 6,0cm; rộng 3,5cm.
+ Bùa đeo làm bằng răng hổ (ký hiệu 05GOC H4L4F5b:41 XS 34/2), phần gốc chân răng bị vỡ, trên thân có hai vết khoan nhỏ. Kích thước: dài 9,3cm; rộng 2,6cm; dày 2,0cm.
+ Bùa đeo bằng sừng đẽo gọt hình răng thú (ký hiệu 08GOC H4L8:34), trên thân có hai lỗ đeo dây một chữ nhật và một tròn. Kích thước: dài 9,7cm; rộng 1,8cm; dày 1,4cm.
+ Bùa đeo làm bằng răng hổ [ký hiệu 06GOC TS1 F8.2 (BTLA 1613/XS 50/2)], chân răng có một lỗ khoan theo chiều dọc. Kích thước: dài 9,5cm; rộng 2,65cm; dày 2,2cm.
+ Bùa đeo làm bằng răng hổ [ký hiệu 06GOC TS1 F8.2 (BTLA 1613/XS 50/1)], chân răng có một lỗ khoan theo chiều dọc và một theo chiều ngang. Dài 8,9; rộng 2,9; dày 1,3cm.
3. Nghệ thuật tượng tròn
Tượng thần ở châu thổ sông Mêkông trong suốt 10 thế kỷ đầu Công nguyên được tìm thấy rất nhiều, tượng Phật bằng gỗ ở Gò Tháp, An Giang, Hậu Giang, Kiên Giang, bằng đồng ở Óc Eo và bằng đá ở nhiều nơi,… Ngoài số tượng ở giai đoạn sớm (trước thế kỷ VII) với đường nét thanh thoát, nét mặt và dáng điệu nhẹ nhàng như tượng Phật bằng gỗ ở Gò Tháp và bằng đá ở Hòn Sóc (Kiên Giang), Vũng Tàu, Đức Hòa (Long An), những tượng Vishnu ở Gò Bảy Liếp, Gò Sao (Long An), Biên Hòa (Đồng Nai),… có thể gọi là thuộc phong cách Phù Nam; những tượng khác từ thế kỷ VII-X có thể xếp vào hơn 10 loại phong cách khác nhau dựa trên trang sức và y phục (Võ Sĩ Khải, 2008). Dưới đây là những tác phẩm tượng tròn đặc sắc phát hiện ở Long An.
3.1. Tượng Phật (Tượng Phật Mỹ Thạnh Đông)
Ký hiệu BTLA 1813/Đa 41. Tượng được sưu tầm từ một ngôi chùa của xã Mỹ Thạnh Đông, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Kích thước: chiều cao 50cm.
Pho tượng được chế tác bằng sa thạch hạt mịn, màu xám đen, tư thế ngồi kiết già trên bệ, đầu tròn, đội mũ hình chóp cụt có chỏm unisa phía trên, đỉnh chỏm unisa có lỗ tròn nhỏ. Ngay dưới mũ ở trán và sau gáy có chạm những đường cong mờ nhạt như các bím tóc cách điệu. Trán thấp, mắt nhỏ nhìn xuống, chóp mũi bị sứt mất, cánh mũi rộng, to. Miệng rộng, môi dày khép kín có đường rìa mép. Tai lớn, dái tai dài ngang cằm và chấm đến vai. Cổ ngắn và to, dưới cổ có đường chạm tựa như vòng trang sức. Áo choàng kín hai vai, có đường viền nổi rõ trên phần cổ. Vai tròn đầy, ngực hẹp, bụng thon, vòng bụng phía trước hơi lồi. Lưng và mông phẳng. Hai tay khoanh trước bụng, bàn tay phải phải đặt lên lòng bàn tay trái. Hai bàn chân khoanh xếp vào nhau lòng bàn chân ngửa.
Về hiện trạng, tượng bị gãy ngang nơi cổ và ngang chỗ phần ngực giáp bụng, được gắn chắp bằng xi măng. Có nhiều vết sứt vỡ dọc hai gối, ngón chân, tay, trước bụng, ngực và rìa vết gãy ngang phần bụng và ngực. Sứt mất sóng mũi, một phần môi trên bên trái và môi dưới, đầu chân mày trái có vết lõm rảnh cong dài xuống sóng mũi. Ngoài ra toàn thân tượng còn bị mòn, sứt vỡ nhỏ ở nhiều chỗ. Tượng ngả màu nâu, trắng mốc, các vết vỡ có màu xám đen.
Niên đại của pho tượng được đoán định khoảng thế kỷ VI-VII sau Công nguyên.
3.2. Tượng Vishnu (Tượng Vishnu Gò Bảy Liếp)
Ký hiệu LA93BL55 (Đa). Kích thước: chiều cao còn lại 65cm. Phát hiện trong quá trình khai quật địa điểm Gò Bảy Liếp trong tình trạng bị vỡ làm nhiều mảnh, sau khi gắn chắp lại thì thấy tượng chỉ còn phần trước của đầu, ngực trên, phần sau thân, hai cánh tay trên cùng phần đế (với hai bàn chân) và chốt liền dưới đế.
Tượng có kích cỡ khá lớn, chế tác bằng sa thạch mịn, màu xám xanh, tư thế đứng. Trên đầu còn dấu vết mờ nhạt của đường viền mũ trụ. Khuôn mặt thon, dài 19cm. Trán rộng, hơi dô; hai hàng lông mày cong dài, sắc nét. Mắt hình hạnh nhân có đuôi dài, mí mắt được thể hiện bằng một đường khắc chìm nét nhỏ. Mũi cao, thẳng dọc dừa. Miệng nhỏ, miệng có râu mép nổi rõ. Cằm nhọn, cổ ngắn, hơi to. Thân tượng được tạc khá cân đối, vai ngang, rộng, ngực nở, bụng thon. Hai cánh tay to đều.
Tuy bị vỡ và sứt mẻ nhiều nhưng vẫn có thể nhận thấy tượng Gò Bảy Liếp có phong cách khá hiện thực, với khuôn mặt trẻ trung, thân hình lực lưỡng, mang đặc điểm nhân chủng Ấn - Âu. Tượng có dáng tượng thần Vishnu, gần gũi phong cách nghệ thuật Phnom Da, niên đại vào đầu thế kỷ VII.
3.3. Tượng Vishnu (Tượng Vishnu Gò Trâm Quỳ)
Ký hiệu BTLA 1812/Đa 40. Kích thước: chiều rộng 23 cm, chiều cao 35cm. Đã được thu hồi trong nhân dân, trong đợt khai quật di chỉ Gò Trâm Quỳ, ấp Thuận Hoà II, xã Hoà Khánh Nam, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.
Pho tượng được chế tác bằng sa thạch hạt mịn, màu xám xanh. Dáng tượng đứng trên bệ, có 4 tay. Tay phải trên cầm bánh xe, tay trái trên cầm con ốc. Tay phải dưới cầm viên ngọc, tay trái dưới chống cây gậy. Mặt vuông, môi dày, các nét phẳng, thùy tai dài, mũ ống vuông, mình trần, mập. Tượng mặc sam-pốt ngắn đến gối, có dây thắt lưng vuông ở giữa hai chân, bệ trơn.
Về hiện trạng, tượng bị patin hóa (ít), còn gần như nguyên dạng nhưng bị sứt mất sống mũi, mẻ vài chỗ ở rốn, bệ, đầu hai ngón chân cái.
Niên đại của pho tượng được đoán định thế kỷ VII-VIII sau Công nguyên.
3.4. Tượng nữ thần (Tượng nữ thần Gò Phật):
Ký hiệu BTLA 1829/KL57. Kích thước: rộng 22,5cm; cao 68cm. Pho tượng được thu thập từ cuộc khai quật di chỉ Gò Phật, xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, Long An năm 1987.
Pho tượng thuộc loại hình tượng tròn, dáng đứng, thẳng, trang nghiêm, tóc bện thành từng lọn nhỏ rồi cuốn thành hình chóp tròn trên đỉnh. Ở trán có đường khắc chìm chạy quanh dưới mái tóc, vòng ra phía sau đầu. Khuôn mặt đầy đặn, trán rộng, hai hàng lông mày cong dính với nhau ở hai đầu sống mũi. Hai mắt mở to, khá dài, miệng rộng. Mình tượng để trần, vai rộng, hai bầu vú to tròn, bụng hơi to phình ra phía trước, lỗ rốn tròn, mờ nhạt, thân dưới quấn xà-rông, phía trước trễ xuống quá rốn. Trên xà-rông trang trí những đường kẻ nếp dọc, đều đặn. Nút thắt xà-rông ở phía trước bụng tạo thành hình hai số 8 nằm ngang song song nhau. Tượng được tạc theo phong cách nghệ thuật Ba-Phuon, thuộc văn hóa Óc Eo.
Về hiện trạng, tượng bị gãy ngang nơi cổ và eo, gắn chắp bằng xi-măng, gãy mất hai cánh tay sát nách, sứt mất phần trên đỉnh tóc. Sứt mũi gắn lại, mất vành tai trái, dái tai phải có vết vỡ, tróc một một mảng lớn trước bụng, mất một lõm trên dây thắt lưng phía sau lưng.
Niên đại của pho tượng được đoán định khoảng thế kỷ VI-VII sau Công nguyên.
3.5. Tượng Ganesa (tượng Ganesa Lộc Giang):
Ký hiệu BTLA 1828/Đa 56. Kích thước: rộng 34,8cm; chiều cao 61cm. Hiện vật thu được từ dưới lòng sông Vàm Cỏ Đông, đoạn thuộc địa phận xã Lộc Giang, huyện Đức Hòa, Long An vào năm 1987.
Pho tượng được chế tác bằng sa thạch hạt mịn, màu xám nâu. Dáng tượng đứng, mình người, đầu voi. Đầu to, trán rộng, vòi lớn, hai mắt nhỏ, ngà mới nhú, hai tai xòe rộng và rủ xuống đến vai, trên tai có các đường gờ nổi. Vai rộng, ngực bè, thẳng, bụng lớn, tròn. Thân dưới quấn xăm-pốt ngắn đến đầu gối. Dây thắt lưng phía trước bụng thể hiện bằng hai đường viền lớn có khóa gần tròn chính giữa bụng. Ở phía sau lưng, dây thắt lưng có một đầu được luồn từ dưới lên rồi rủ xuống tạo thành vạt hình tam giác cân, không trang trí hoa văn. Lưng rộng phẳng ở vị trí hai bả vai, eo nhỏ thắt ở phần giáp ngực và bụng. Giữa sống lưng được thể hiện bằng một đường khắc chìm từ gáy đến dây thắt lưng. Chân tượng thô, to, thẳng đứng hình trụ tròn, hơi thuôn nhỏ về cổ chân.
Về hiện trạng, tượng bị gãy mất một đoạn vòi (đoạn còn lại đến giữa ngực), gãy mất cánh tay phải ngang nách, gãy mất cách tay trái (còn đoạn dài ngang eo), gãy mất hai bàn chân đến cổ chân. Không có ngà trái, rìa vành tai trái. Trong lòng ống chân được khoan gắn một đoạn thép (đường kính mặt cắt đoạn thép 01cm) để làm đế.
Niên đại pho tượng được đoán định khoảng thế kỷ VII sau Công nguyên.
4. Nghệ thuật chạm khắc trên vàng
Theo các thư tịch cổ, nghệ thuật kim hoàn trong xã hội Óc Eo thuở ấy rất phát đạt, người Phù Nam thích chạm trổ, đúc nhẫn, vòng vàng, chén đĩa bạc,… Ở Long An, nơi các di tích khảo cổ trên vùng Đồng Tháp Mười như Giồng Dung, Gò Đế, Gò Hàng, Gò Ô Chùa,… các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều di vật thể hiện có hoạt động sản xuất đồ kim hoàn tại chỗ như đồ trang sức bằng kim loại chì - thiếc, nhiều hạt chuỗi bằng thủy tinh, đá quý nhiều màu sắc, một số đồng tiền bằng kim loại chì - thiếc và vô số những hạt vàng nhỏ như trứng cá; bên cạnh đó là những viên đá thử vàng, những phế vật (hạt chuỗi, khuyên tai, vòng tay) không hoàn chỉnh, thủy tinh nguyên liệu, xỉ và bọt thủy tinh,… Những cánh sen vàng và một vài lá vàng chạm khắc hình voi trong bộ sưu tập hiện vật vàng Bình Tả (Gò Xoài - Đức Hòa - LongAn) là những hiện vật đặc sắc thể hiện nghệ thuật chạm khắc trên vàng của người nghệ nhân Phù Nam - Óc Eo xưa.
4.1. Những cánh sen vàng
Có hai lá vàng hình tròn được chạm thành hình bông sen mười hai cánh, đầu cánh nhọn, nhụy nằm chính giữa, bề mặt được chạm nổi những hạt sen tròn. Bông sen thứ nhất có đường kính 7cm; bông sen thứ hai có đường kính 5,5cm. Trong các đền thờ Ấn Độ giáo, bông sen đã mọc lên từ rốn của thần Vishnu tượng trưng cho Manị - Trái đất. Bông sen cũng tượng trưng cho nước và tạo vật. Nó còn thể hiện cho sự tự sinh. Đó là lý do mà thần Brahma tọa trên một đài sen. Khi đức Phật đản sinh, ngài bước đi bảy bước và ngay lập tức, những bông sen nở rộ dưới chân ngài. Mỗi vị Phật là một “Svayambhũ” - tự hiện hữu. Về ý nghĩa của các bông sen vàng và những cổ vật trong lòng di tích, G. Coedès - một học giả người Pháp cho rằng “việc chôn báu vật dưới nền đền hay dưới bàn thờ là một tục cổ xưa của Ấn Độ, vẫn được áp dụng ở một số nước khi lập Simas (trụ giới) đền, chùa” (G. Coedès, 1927).
Trong Phật giáo, hai bông sen trên đây có mười hai cánh, biểu trưng cho giáo lý Thập nhị nhân duyên[8].
Bông sen thứ ba, trước đây thường được gọi nhầm là “bông sứ tám cánh” (trong thực tế, bông sứ chỉ có năm cánh), thực sự là một bông sen tám cánh, gồm có tám cánh sen mọc xung quanh một nhụy sen ở giữa, bề mặt được chạm nổi những hạt sen tròn, bông sen này có đường kính 7cm. Theo Phật giáo, sen trắng tượng trưng cho sự thuần hóa của nhân tính, bồ đề tâm hay còn gọi là giác tâm, thường có 8 cánh ứng với Bát chính đạo[9]. Nó là đặc trưng của phái Mật tông và là đoá sen của các vị Phật.
4.2. Những lá vàng chạm hình voi
H ình voi xuất hiện trên tám lá vàng dạng hình chữ nhật (dài 2,9-3,3cm; rộng 2,6-3cm). Những hình tượng này được chạm khắc ở nhiều tư thế đứng khác nhau. Trong đó, bốn hình trong tư thế nhìn ngang, đầu hướng về phía trước, ngà cong nhọn, vòi buông thẳng xuống dưới; có một hình còn có thêm nhiều chấm nổi nhỏ trên trán. Ba hình voi khác trong tư thế nhìn ngang, đầu hướng về phía trước, ngà cong, vòi buông thõng rồi cong nhẹ lên. Trong đó, hai con voi có trang trí những chấm nhỏ nổi ở trán. Hình voi thứ tám thể hiện đầu quay ngang, ngà nhọn, vòi uốn cong lên đến miệng, trên trán có chấm nổi. Nhìn chung, những hình trên đều được khắc họa khá hiện thực, dáng cân đối, trong tư thế vận động. Hình tượng voi biểu trưng cho sức mạnh, sự khôn ngoan, thận trọng và là một trong bốn con vật đại diện cho sức mạnh và sinh lực bên cạnh hổ, sư tử và báo. Voi cũng là một trong bảy báu vật của Phật giáo nên hình tượng của voi xuất hiện nhiều trong kiến trúc và trang trí Phật giáo.
Những bông sen vàng giống như ở Gò Xoài (1987) đã từng được phát hiện trước đó ở Đại Hữu (Quảng Bình, năm 1926), Pông Tyuc (hạ lưu sông Mê Nam - Thái Lan, năm 1927); Trong cùng một khoảng thời gian từ 1982 đến 1992 ở Cạnh Đền, Nền Chùa (Kiên Giang) Gò Thành (Tiền Giang), ở Giồng Xoài (Kiên Giang, 2001) và ở Cát Tiên (Lâm Đồng, 2002).
Bên cạnh những dụng cụ và nguyên liệu chế tác thể hiện yếu tố nội sinh trong kỹ thuật chế tác kim hoàn, những hiện vật vàng phát hiện dưới lòng đất Long An đã được chạm khắc bằng một nghệ thuật điêu luyện với những đường nét trang trí nhuần nhuyễn và tinh xảo, mang yếu tố ngoại sinh. Như nhận xét của các nhà chuyên môn rằng những biểu hiện nghệ thuật ấy được hiểu rằng chúng mang yếu tố Ấn Độ, Trung Á, có thể cả với thế giới Địa Trung Hải, cùng những đặc thù bản địa.
4.3. Bản minh văn vàng Bình Tả
Là hiện vật quan trọng nhất trong bộ sưu tập, Theo GS Hà Văn Tấn (1993), bản minh văn Gò Xoài được viết bằng ngôn ngữ Pali lai (Hybrid Pali, có dấu vết Sanskrit) và bằng một thứ văn tự Deccan (Nam Ấn), khoảng thế kỷ VIII-IX . Minh văn có năm dòng, có thể đọc như sau:
(1) ye dharmmà hetupabhavà tesam hetum tathàgato avaca tesan ca yo nirodho evamvadi mahàsama (no)
(2) duhkham duhkhasamutpàdo dukhassa ca atikkamo airo atthangiko maggo duhkopasamagàmìko //
(3) tad yathà // dandake // pandake // kaurande // keyỳure // dantile // dantile // svàhàh //
(4) tad yathà adhame amvare amvare parikunja nàta nàta puskaràdhaha jala khama khaya i limi
(5) liki limilikìrtti caramudre mudramukhe svàhàh //
Dòng thứ nhất là Pháp thân kệ của Phật giáo, được dịch nghĩa như sau:
“Các pháp đều do nhân duyên sinh ra, đấng Như Lai đã thuyết về nguyên nhân cũng như cũng như sự tiêu diệt chúng, chính người, đức Đại sa môn đã nói như vậy”.
Dòng thứ hai là một đoạn trong kinh Pháp cú (Dammapada), được dịch như sau:
“Nỗi khổ lại sinh ra nỗi khổ. Nhưng có thể vượt qua được. Bát chính đạo dẫn đến sự chấm dứt nỗi khổ”.
Ba dòng cuối là là hai câu thần chú dhàrani (Mật tông).
Pháp thân kệ là bài kệ được coi là tóm tắt tư tưởng cơ bản của Phật giáo, cho nên Gò Xoài (Long An) - nơi phát hiện minh văn trên- là một di tích Phật giáo. Phát hiện khác, trong một di tích Champa ở tỉnh Gia Lai, phía sau một phù điêu có hình Phật ngồi, có bốn dòng minh văn đúng là câu kệ pháp thân này, viết bằng tiếng Sanskrit chuẩn và bằng một thứ chữ xưa hơn, khoảng thế kỷ VI, VII. Như vậy là đến nay, đã tìm được câu kệ Pháp thân bằng Pali cũng như Sanskrit ở Việt Nam. Đó là những bằng chứng chắc chắn của Phật giáo (Hà Văn Tấn, 1993, 1997).
Những câu Phật ngôn như trên đã từng được tìm thấy ở nhiều nơi như: Myanmar; Guntupalle (Andha Pradesh) và Kasmir - Ấn Độ, Nakhon Pathom và U Thong (Suphan Buri) - Thái Lan (Peter Skilling, 1991; Thái Văn Chải, 2000).
Hai câu kinh Phật trên minh văn Gò Xoài đã thể hiện những nội dung cơ bản của triết lý Phật giáo, về các thuyết “Nhân duyên”, “Tứ diệu đế” và “Bát chính đạo”. Đây là những chứng cứ khoa học góp phần cho việc tìm hiểu sự lan truyền Phật giáo từ Ấn Độ sang Việt Nam và Đông Nam Á.
Trước đó, đã có công bố về bản minh văn Phạn ngữ ghi trên bia đá ký hiệu K5 (Prasat Pram Loven) phát hiện ở Gò Tháp (Đồng Tháp) nội dung có đoạn ghi lại việc Thái tử Gunavarman “được chỉ định cai trị một xứ sở sùng đạo chinh phục từ đầm lầy” (Bùi Phát Diệm và cộng sự, 2001, tr.19).
Khu vực Gò Tháp đã được ghi nhận từ những phát hiện của các học giả Pháp (Silvestre, Lunet de Lajionquière) từ cuối thế kỷ XIX, đến nay các di tích quan trọng của khu di tích này như Gò Tháp Mười, Gò Bà Chúa Xứ, Gò Minh Sư, Đìa Phát, Đìa Vàng,… đã được khai quật, xác định rằng đây là một khu di tích kiến trúc – cư trú và mộ táng quan trọng của văn hóa Óc Eo, miền Tây Nam Bộ.
Kết luận
Ba mươi năm qua, công tác điều tra, thám sát, khai quật khảo cổ ở Long An đã đem đến cho ngành khảo cổ học một khối lượng tư liệu lớn về thời kỳ Óc Eo, với nhiều dấu ấn của văn hóa Ấn Độ được phát huy bởi sự sáng tạo bền bỉ của các cộng đồng cư dân bản địa. Những phát hiện ấy đã được công bố qua nhiều công trình nghiên cứu, sách[10]; tạp chí chuyên ngành[11], luận án Tiến sĩ khoa học lịch sử[12],... Một số sưu tập hiện vật đặc sắc đã được trưng bày tại Bảo tàng Long An, Thành phố Hồ Chí Minh, thủ đô Hà nội và gần đây, tại New York và Houston (Hoa Kỳ). Nguồn tư liệu mới mẻ này đã và đang góp phần giúp các nhà nghiên cứu đi sâu tìm hiểu nguồn gốc, phạm vi phân bố và các giai đoạn phát triển của văn hóa Óc Eo - hậu Óc Eo ở Long An nói riêng và ở đồng bằng Nam Bộ nói chung; góp phần phục dựng lại hình ảnh về đời sống kinh tế, mối quan hệ văn hóa - thương mại và tôn giáo - tộc người của cư dân cổ nơi đây với các vùng khác ở trong và ngoài châu thổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Bùi Phát Diệm (1997), “Bốn đồng tiền Óc Eo ở Bảo tàng Long An”, Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1996, Hà Nội,
- Bùi Phát Diệm và cộng sự (Đào Linh Côn, Vương Thu Hồng) (2001), Khảo cổ học Long An – Những thế kỷ đầu Công nguyên, Sở Văn hóa - Thông tin Long An, Bảo Tàng Long An.
- Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sỹ Khải (1995), Văn hóa Óc Eo, những khám phá mới, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Lê Xuân Diệm, Vũ Kim Lộc (1996), Cổ vật Champa, NXB Văn hóa Dân tộc.
- Nguyễn Kim Dung, Trịnh Căn, Đặng Văn Thắng, Vũ Quốc Hiền và Nguyễn Thị Hậu (1995), “Đồ trang sức trong các mộ chum ở Cần Giờ (Thành phố Hồ Chí Minh)”, Tạp chí Khảo cổ học, số 2, tr.27-45.
- Bùi Chí Hoàng và cộng sự (Phạm Chí Thân, Nguyễn Khánh Trung Kiên) (2012), Khảo cổ học Bà Rịa - VũngTàu từ tiền sử đến sơ sử, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Vương Thu Hồng, Đào Linh Côn (1996), Đánh giá hiện trạng và hệ thống hóa các di tích khảo cổ học trên địa bàn tỉnh Long An, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, Tài liệu Bảo tàng Long An – Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Long An.
- Vương Thu Hồng, Nguyễn Đức Điệng (1998), “Phát hiện về đồ trang sức bằng đá quý và thủy tinh tại di chỉ Ô Chùa (Vĩnh Hưng, Long An)”, Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1997, Hà Nội,
- Võ Sĩ Khải (2008), “Văn hóa Óc Eo sáu mươi năm nhìn lại”, Văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù Nam, NXB Thế giới, Hà Nội, tr.34-67.
- Lê Thị Liên (1998), “Kỹ thuật chế tác hạt chuỗi của một trung tâm cổ của Ấn Độ”, Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1997, Hà Nội.
- Lê Thi Liên (2006), Nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở Đồng bằng sông Cửu Long trước thế kỷ X, NXB Thế giới, Hà Nội.
- Dikshit M.G. (1949), Etched beads in India, Postgraduate and ResearchInstitude Poona.
- Francis P. Jr. (1996), “Bead, the bead trade and state development in Southeast Asia”, Ancient trades and cultural contacts in Southeast Asia. The Office of the National Culture Commission Bangkok, Thailand, .
- Glover I.C. (1996), “The Southern Silk Road: Archaeological evidence for early trade between India and Southeast Asia”, Ancient trades and culture contacts in Southeast Asia, The Office of the National Culture Commission Bangkok, Thailand .
- Kraxulin V.X. (1981), Sách tra cứu của nhà kỹ thuật địa chất, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, .
- Malleret L. (1962), L’ Archeologie du delta du Mekong, T. III, BEFEO, Vol. XLIII, Paris.
- Malleret L. (1963), L’Archéologie du delta du Mekong, Vol. 4, Paris.
- Mayuree Veraprasert (1992), “Khlong Thom: an ancient bead- manufacturing location and an ancient entrepôt”, Early metallurgy, trade and urban centres in Thailand and Southeast Asia, White Lotus, Bangkok,
- Nancy Tingley (2010), Arts of ancient Vietnam from river plain to open sea, Asia Society - The Museum of Fine Arts, Houston - Distributed by Yale University Press, New Haven and London.
- Shakma G.R. (1969), Excavations at Kausãmbĩ, The Manager of Publications, Delhi, p.105-125.
- Francis P. (1982), Glass Beads of India, Lapis Route Books, Lake Placis, New York.
- Francis P. (1990), Bead making in Arikamedu and beyond, World Archaeology, Vol.23, No.1, p.28-43.
- Coedès G. (1927), “Excavations at P'ong Tük in Siam”, Annual Bibliography of Indian Archaeology, pp.16-20.
- Peter Skilling (1991) “A Buddhist Verse Inscription from Andhra Pradesh”, Indo-Iranian Journal, 34, p.239-246.
- Hà Văn Tấn (1994), “Từ minh văn trên lá vàng ở Gò xoài (Long An) bàn thêm về Pháp thân kệ”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1993, NXB Khoa học Xã hội, tr.318-319.
- Hà Văn Tấn (1998), “Ghi chú thêm về minh văn ở Gò Xoài (Long An)”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 1997, NXB Khoa học Xã hội, tr.694-696.
- Thái Văn Chải (2000), Nghiên cứu chữ viết cổ trên bia ký ở Đông Dương, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.
- https://giacngo.vn/phathoc/2010/01/10/5E4001.
- http://www.tuvien.com/phat_hoc/index.php?id=datas2/334batchanhdao.
Nguồn: Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”
[1] Võ Sĩ Khải (2008), “Văn hóa Óc Eo sáu mươi năm nhìn lại”, trong Văn hóa Óc Eo và Vương quốc Phù Nam - Kỷ yếu Hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 60 năm phát hiện văn hóa Óc Eo (1944-2004), NXB Thế giới, Hà Nội (trang 35): Từ 1944 đến 1945, hơn 300 địa điểm có di tích và di vật kiến trúc đã được ghi nhận trên địa bàn Nam Bộ, từ vùng cận biển Hà Tiên - Rạch Giá, Núi Sam, Bảy Núi, Ba Thê - Óc Eo, đồng Xà No, các giồng đất và vùng cận biển Sóc Trăng, vùng U Minh - Cạnh Đền, vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu, Đồng Tháp Mười cho đến vùng thung lũng hạ lưu sông Đồng Nai.
[2] Bùi Phát Diệm và cộng sự (2001), Khảo cổ học Long An - Những thế kỷ đầu Công nguyên, Sở Văn hóa - Thông tin Long An xuất bản, trang 16-17.
[3] Nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
[4] Nay là Viện Phát triển Bền vững vùng Nam Bộ.
[5] Bùi Phát Diệm và cộng sự (2001), Khảo cổ học Long An - Những thế kỷ đầu Công nguyên, Sở Văn hóa - Thông tin Long An xuất bản, trang 164-180: Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa khảo cổ ở Đồng bằng sông Cửu Long, có niên đại khoảng thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VII sau Công nguyên. Theo kết quả nghiên cứu gần đây, văn hóa Óc Eo ở Long An được phân định thnh ba giai đoạn phát triển: Giai đoạn Tiền Óc Eo (thế kỷ thứ III trước Công nguyên đến thế kỷ thứ I sau Công nguyên; Giai đoạn Óc Eo (thế kỷ thứ II đến thế kỷ VI-VII sau Công nguyên) và Giai đoạn hậu Óc Eo (thế k ỷ VIII-IX sau Công nguyên).
[6] Bùi Phát Diệm và cộng sự (2001), Tài liệu đã dẫn, trang 209-214.
[7] Beryl là loại ngọc có thành phần hóa học: Beryllium Aluminum Silicate, công thức hóa học: Be3Al2(SiO3)6 , tinh thể 6 mặt, độ cứng: 7,5 - 8, màu: lục nhạt, lam,… đỏ (rất hiếm).
[8] Cánh hoa sen hàm ẩn ý nghĩa tượng trưng cho vạn pháp, hay muôn vàn phương tiện tu tập. Hoa sen 4 cánh tượng trưng cho giáo lý Tứ diệu đế, sen 8 cánh chỉ cho Bát chánh đạo (sen xanh 8 cánh cũng là biểu tượng Gia đình Phật tử Việt Nam), sen 10 cánh tượng trưng cho Thập thiện, 12 cánh cho giáo lý Thập nhị nhân duyên,... hoa sen trăm cánh tượng trưng cho Bách pháp Minh môn, sen ngàn cánh tượng trưng cho Thiên pháp Minh môn, và sen vạn cánh tượng trưng cho Vạn pháp Minh môn (Theo Huỳnh Trung Chánh, Diệu nghĩa hoa sen trong Phật giáo, daitangkinhvietnam.org/.../2492-dieu-nghia-hoak-sen-trong-phat-giao.html - Hoa Kỳ).
[9] Bát chánh đạo (Arya-stavgika-marga) là một trong “37 phẩm trợ đạo”, là pháp môn tu tập căn bản của Phật giáo Nguyên thủy, bất cứ một vị xuất gia nào cũng phải hiểu rõ giáo lý này, nó là kim chỉ nam, là phương pháp tu tập cho người xuất gia, hay nói đúng hơn cho những ai muốn có được loại hạnh phúc ly dục, ly pháp bất thiện này. Giáo lý “Bát chánh đạo”, vốn tiếng Pali là Ariya samma magga, Phạn văn là: Arya-stavgika-marga, Hoa dịch là “Bát chi thánh đạo”, “Bát thánh đạo phần”, vì Ariya (P) “Arya” (S) có nghĩa là “thánh” không phải là “chánh”; samma (P) hay stavgika (S) có nghĩa là chi, chi phần; và magga (P) hay marga (S) là đường, con đường. Nhưng chúng ta gọi giáo lý này là ‘Bát chánh đạo’ cũng không sai, vì nội dung được trình bày trong giáo lý này nhấn mạnh điểm chánh (samma), không phải Thánh (Ariya). Như vậy, từ này mang ý nghĩa là con đường dẫn đến bậc Thánh, hay con đường đi đến thánh thiện. Thế nhưng nội dung chính của giáo lý này chính là phương pháp để trở thành bậc Thánh, không phải mô tả trạng thái của bậc Thánh. Phương pháp được đề cập trong giáo lý này chính là samma (P) hay samyag, có nghĩa là “chánh”, nó đi theo với 8 chi nhánh là: kiến (P. ditthati, S. drstih), tư duy (P. sankappa, S. samkalpah), ngữ (P. vaca, S. vak), nghiệp (P. kammanta, S. karmantah), mạng (P. Ajiva, S. ajivah), tinh tấn (P. vayama, S. vyayamah), niệm (P. sati, S. smrtih), định (P. sammadhiti, S. samadhih) cho nên được gọi là: 1. Chánh kiến, 2. Chánh tư duy, 3. Chánh ngữ, 4. Chánh nghiệp, 5. Chánh mạng, 6. Chánh tinh tấn, 7. Chánh niệm, 8. Chánh định (Theo Thích Hạnh Bình (2008), “Bát chánh đạo – Lối sống mang lại hạnh phúc”, Đại Tạng Kinh Việt Nam).
[10] Sách: Địa chí Long An (1989); Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (1987); Văn hóa Óc Eo - những khám phá mới (Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải, 1995); Khảo cổ học Long An - những thế kỷ đầu Công nguyên (Bùi Phát Diệm và cộng sự, 2001); Văn hóa đồng bằng Nam Bộ - di tích kiến trúc cổ (Võ Sĩ Khải, 2002);...
[11] Tạp chí: Khảo cổ học, Cổ vật tinh hoa, Thông báo khoa học Viện Bảo tàng Lịch Sử Việt Nam, Thông báo khoa học Bảo tàng Lịch Sử Việt Nam tại TP HCM,...
[12] Đào Linh Côn (1995), Nguyễn Văn Long (1996), Bùi Phát Diệm (2003), Lê Thị Liên (2004), Lâm Quang Thùy Nhiên (2005),...