Tìm hiểu tính cách con người ở từng vùng văn hóa có ý nghĩa vô cùng quan trọng, giúp lý giải những hoạt động, cách ứng xử của con người, của cộng đồng người trước hoàn cảnh, trong những tình huống cụ thể. Từ đó góp phần xác định cái riêng, cái bản sắc của dân tộc thể hiện qua từng con người, cộng đồng người của dân tộc đó.
Trong phạm vi của bài viết, chúng tôi chỉ giới hạn tìm hiểu tính cách con người Nam Bộ[1].
Có lẽ, một trong những người đầu tiên nhận xét về tính cách con người Nam Bộ được giới nghiên cứu nhắc đến là Trịnh Hoài Đức (1765-1825). Ông là người Minh Hương nên có cái nhìn khách quan về con người Nam Bộ ở phương diện này. Theo Sơn Nam, Trịnh Hoài Đức khi bàn đến tính cách con người đi khẩn hoang ở vùng đất phương Nam hoang sơ và khắc nghiệt, đã dùng cụm từ “sĩ khí hiên ngang” để chỉ những con người “kiến nghĩa bất vi vô dũng giả”, chuộng công bằng lẽ phải”[2] .
Năm 2004, Ngô Đức Thịnh trong cuốn Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam có nhận xét về con người Nam Bộ “Họ cởi mở, chan hòa, dễ kết thân, dễ hòa vào với cộng đồng mới lạ, không sĩ diện kiểu kẻ sĩ, không coi trọng môn đăng hộ đối”[3].
Trong một bài viết ngắn đăng trên tạp chí Khoa học xã hội (Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ), Dương Hoàng Lộc nhìn nhận con người Nam Bộ ở tính khoan dung: “Người Việt đến từ một nền văn hóa nông nghiệp lúa nước lâu đời,(…) tinh thần tương trợ, thương yêu, nhân ái và thấm đượm tính khoan dung hết sức nhân bản của 4000 năm văn hóa dân tộc”[4].
Sử dụng tư liệu dân gian và phương pháp định lượng, Trần Ngọc Thêm trong bài nghiên cứu nhan đề “Tính cách văn hóa người Việt Nam Bộ”[5] xem xét tính cách văn hóa người Việt Nam Bộ l sản phẩm tổng hợp của 3 nhân tố chính: truyền thống văn hóa dân tộc tiếp biến với văn hóa phương Tây trong bối cảnh tự nhiên – xã hội Nam Bộ. Tác giả cắt nghĩa tính cách văn hóa người Việt Nam Bộ với 5 đặc trưng tính cách như: tính sông nước, tính bao dung, tính năng động, tính trọng nghĩa, tính thiết thực cùng với hệ quả của nó. Có thể coi đây là một cách nhìn tính cách con người Nam Bộ ở phương diện văn hóa có hệ thống bằng cách tiếp cận vấn đề và sử dụng phương pháp nghiên cứu, trình bày vấn đề khoa học.
Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các bài nghiên cứu, bài viết khác rải rác cũng có đề cập đến tính cách con người Nam Bộ, nhưng nhìn chung chỉ là những nhận xét tạt ngang, hoặc chỉ tìm hiểu tính cách con người Nam Bộ trong văn chương[6], chưa có những công trình chuyên sâu về đề tài này.
Bài viết dưới đây tìm hiểu tính cách con người Nam Bộ tổng hòa trong quan hệ với môi trường địa lý tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử, môi trường văn hóa của cộng đồng người Việt ở Nam Bộ. Với hướng tiếp cận như vậy, đặt vấn đề tìm hiểu tính cách con người Nam Bộ là đi tìm những đặc điểm đặc thù về lối sống, cách suy nghĩ, ứng xử của cộng đồng người Nam Bộ, được biểu hiện thông qua các cá nhân hay nhóm cá nhân, để khu biệt với cá nhân hay nhóm cá nhân thuộc cộng đồng người khác (chẳng hạn người miền Trung, hay miền Bắc).
1- Hào khí của người đi mở cõi
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.
Hai câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ đã nói được tính cách con người Nam Bộ: vừa oai hùng, vừa tình nghĩa. Con người “mang gươm đi mở cõi”, phải là con người chí khí trượng phu lắm mới dám nghĩ đến việc” khai sơn phá thạch”, dám từ bỏ nơi “chôn nhau cắt rốn” để ra đi. Phải là con người luôn có đầu óc sáng tạo, không chịu sự ràng buộc mới nghĩ đến việc mở mang bờ cõi.
Quả thật, những con người buổi đầu khai phá vùng đất mới là những nhà “thám hiểm”. Theo tôi, những con người này về phương diện chí khí, sự phiêu lưu không thua kém những người như Cristov Côlông đã tìm ra châu Mỹ, bác sĩ Yersin đã tìm ra cao nguyên Đà Lạt, v.v… Những con người phương Tây thuở ấy đã có phương tiện thuyền buồm, có la bàn, ống nhòm,v.v…. Bác sĩ Yersin thế kỷ XIX đã có máy móc, phương tiện hiện đại. Còn như cha ông chúng ta, những người đi mở cõi chỉ có hào khí của người đi “khai sơn phá thạch”.
Đồng bằng Nam Bộ thuở trước, theo các tài liệu khảo cổ, là các đầm lầy ngập mặn[7] với tràm, đước, cây dừa nước, v.v…bạt ngàn mênh mông. Miền Đông đất đỏ là xứ sở của các loài cây nhiệt đới. Trên là rừng, duới là biển, những con người phiêu lưu ấy phải đối mặt với vô số tai họa đang rình rập[8]: thú dữ tấn công, dòng nước xoáy nhấn chìm những con thuyền, bãi lầy lún ngập có thể nuốt chửng rất nhiều sinh mạng. Mùa nước lớn những rắn, chuột, thú dữ, v.v… có thể dạt vào những quần cư của những kẻ phiêu lưu này. Mùa gió chướng, một ngọn sóng thần có thể cuốn phăng ra biển bao nhiêu sinh mạng, chôn vùi bao nhiêu thôn ổ trong lòng biển cả, v.v…..Nguy cơ ấy là thường trực đối với những con người dám sống chung với lũ, với thú rừng, với đầm lầy, với sông nuớc. Nhưng bù lại, họ lại được thiên nhiên ưu đãi: đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hoà, sông nước lưu thông:
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về.
Đất lành chim đậu, những người con mang hoài bão đi mở cõi đã gắn bó với đất, với rừng, với biển, vừa chinh phục, vừa tìm cách hài hoà với thiên nhiên. Vùng đất màu mỡ này đã bao dung cuộc sống con người. Con người cũng dang tay đón nhận sự ban phát hào phóng của thiên nhiên. Chính đất đai, xứ sở đã tạo ra tính cách con người Nam Bộ: hào phóng. Hào phóng vì thiên nhiên đã ưu đãi cho con người. Hào phóng vì con người cần nương tựa vào nhau để tăng thêm sức mạnh. Có lẽ, cách xưng hô của con người Nam Bộ: anh Hai, chị Ba…, là cách xưng hô vừa thể hiện ngôi thứ, nhưng đằng sau đó cũng là sự sàng lọc tính cách, nhiều khi cách xưng hô nghiêng về tính cách: “ tính cách anh hai”, tính cách của người trượng phu, hào phóng. “Tuổi tác và phẩm hạnh là điều mà người Nam Bộ quan tâm và phân biệt đối xử. Hẳn vì thế mà người ta quen gọi nhau bằng thứ, anh Hai, chị Ba, rất ít khi thêm các chức vị phía trưóc tên người”[9]. Nét tính cách trượng phu, hào phóng để thể hiện sức mạnh của con người trước thiên nhiên, đang đòi hỏi con người phải khẳng định mình.
2- “Sĩ khí hiên ngang” của người trượng phu
Một yếu tố ảnh hưởng đến tính cách con người Nam Bộ là hoàn cảnh xã hội- lịch sử. Không thể hiểu đúng tính cách con người Nam Bộ, nếu không chú ý đúng mức đặc điểm lịch sử xã hội của cư dân vùng đất này trong lịch sử. Khác với các vùng miền khác trên dải đất Việt Nam, người Nam Bộ đã sống với quy chế dân chủ dưới thời thuộc địa gần một thế kỷ[10].Với quy chế thuộc địa, tự do dân chủ cũng được mở rộng hơn so với miền Trung và Bắc. Một yếu tố cần nhắc tới như là đặc trưng của cư dân vùng đất mới Nam Bộ là họ cởi mở, dễ tiếp nhận cái mới; cách sống, lối cảm, lối nghĩ ảnh hưởng của phương Tây[11]. Trên cơ sở ấy, ý thức cá nhân xuất hiện. Cơ chế xã hội đó hình thành ở người Nam Bộ cái ý thức về nghĩa vụ và quyền lợi rất rõ ràng. Trong đó, sở hữu cá nhân đã trở thành một giá trị thiêng liêng. Trong thực tế lịch sử hai cuộc kháng chiến, người Nam Bộ đấu tranh vì quyền lợi dân tộc nhưng lồng vào đó là mồ mả cha ông là ruộng đất, nhà cửa, là hạnh phúc của chính họ: “Tấc đất ngọn rau ơn Chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc– Nguyễn Đình Chiểu).
Vì vậy, khi tổ quốc bị xâm lăng cũng đồng nghĩa quyền lợi riêng của mỗi người bị đe dọa thì người Nam Bộ sẵn sàng xả thân. Sự xả thân này thể hiện ở sự lựa chọn quyết liệt, nhất là trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng, dẫn đến những quyết định táo bạo mà con người ở những vùng đất khác không dám vượt lên. Giáo sư Trần Văn Giàu dùng tên gọi để chỉ tính cách này ở các Sĩ phu Nam Bộ là “sĩ khí”. Và tương tự như vậy, khi quyền lợi riêng của họ bị xâm phạm, họ cũng sẵng sàng đấu tranh đến cùng[12]. Dưới chế độ mới, trong xu thế đô thị hóa, việc giải tỏa đất đai ở các địa phương, nếu giải quyết không thỏa đáng, những đoàn người từ các địa phương Nam Bộ, tụ tập trước văn phòng tiếp dân của Đại biểu Quốc hội là lẽ đương nhiên, khi quyền lợi riêng của họ bị xâm phạm.
3- “Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”
Người Việt đi về phương Nam mang theo truyền thống thượng võ và hào hoa của lịch sử 4000 năm văn hiến: “Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”. Truyền thống đó đó làm nên chí khí của người nghĩa quân Cần Giuộc, tính cách trượng phu của Trương Định, Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị, v.v…đồng thời cũng làm nên truyền thống trọng văn của người Nam Bộ.
Những cánh đồng mỏi cánh cò bay “ nhất Đồng Nai nhì hai huyện”, màu xanh ngút ngàn, sông nước mêng mang,… gợi cảm hứng cho thơ ca, nghệ thuật. Cảnh sinh tình. Sống trong môi trường đó, cảm xúc con người trước cái đẹp dễ bật ra. Nam Bộ chứa đựng kho tàng văn học dân gian phong phú với những chuyện cổ, thơ ca, câu đố, những câu chuyện nổi tiếng về thời khẩn hoang…. Nhất là vùng sông Tiền “ đất giồng cao ráo nên sinh hoạt đã định hình. Vựa lúa của Nam Bộ…” ( Sơn Nam, 2004, tr. 46). Theo số liệu đã thống kê, chỉ tính riêng vùng đất Bến Tre có đến 75 điệu lý khác nhau. Địa phương này của Nam Bộ là một trong những cái nôi của dân ca Nam Bộ. Hát cải lương ra đời từ nghệ thuật hát bội truyền thống và là kết quả của sự tiếp thu nghệ thuật sân khấu phương Tây, hát Tiều, hát Quảng của người Hoa,v.v…
Vùng đất Nam Bộ với lịch sử hơn 300 năm mang đến kho tàng văn hóa dân tộc những sản phẩm nghệ thuật vô gia, mang đậm dấu ấn văn hóa vùng sông nước.
Văn chương, nghệ thuật Nam Bộ, thấm đượm khí chất con người Nam Bộ đồng hành cùng lịch sử dân tộc với tên tuổi của Mạc Thiên Tích gắn với tao đàn Chiêu Anh Các, Nguyễn Đình Chiểu tấm gương lao động nghệ thuật sáng chói với quan niệm: “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khảm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”,… Thnh tựu của văn học quốc ngữ nước nhà gắn với tên tuổi các nhà văn tiên phong của vùng đất Nam Bộ như: Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh, Đông Hồ, Mộng Tuyết, v.v… Trong nghệ thuật cải lương với tên tuổi của Cao Văn Lầu, Trần Hữu Trang,… và biết bao tên tuổi của những nghệ sĩ hữu danh và vô danh đóng góp trên lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, sống qua các thời kỳ lịch sử sôi động của dân tộc.
Vùng đất châu thổ sông Cửu Long, trở thành đất văn vật, đi vào lịch sử dn tộc làm phong phú hành trang tinh thần của người Việt ở vùng đất phía Nam Tổ quốc.
4- Đạo lý, tình nghĩa- đặc trưng trong ứng xử của người Nam Bộ
Giữa cái mênh mông của đồng lầy, của rừng ngập mặn, của biển cả và sông nước, con người cần phải nương tựa vào nhau. Nhưng sự liên kết đó dựa trên cơ sở nào? Phải lấy cái gì để điều chỉnh mối quan hệ giữa người với người. Trong hoàn cảnh và môi trường sống như vậy, con người Nam Bộ đã lấy tình nghĩa và đạo lý làm chỗ dựa tinh thần cho sự gắn bó, liên kết giữa người với người:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khảm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng ta.
Cụ Đồ Chiểu đã viết như thế trong tác phẩm Dương Từ Hà Mậu và coi đây là mục đích nghệ thuật trong suốt đời cầm bút của mình, và đấy cũng là lẽ sống, cách ứng xử của con người Nam Bộ. Cái gốc của con người là đạo lý, sự gắn kết giữa con người là tình nghĩa làm cho con người thoát khỏi cuộc sống bầy đàn giữa thiên nhiên hoang dã. Đây chính là nét văn hóa đặc trưng của con người Nam Bộ. Cách xưng gọi theo ngôi thứ: anh Hai, chị Ba… vừa xác định vị trí tư thế của mỗi người trong cộng đồng gia đình, vừa lôi kéo mỗi thành viên vào cuộc sống gia đình, họ hàng đậm đà tình nghĩa. Khi đã lấy đạo lý, tình nghĩa làm chuẩn mực, con người sẽ được nhân thêm sức mạnh để bảo vệ lẽ phải:
Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường gặp cảnh bất bằng mà tha.
( Nguyễn Đình Chiểu)
5- Con người vùng đất mới, năng động, sáng tạo
Con người không chỉ dựa vào sự ưu đãi của thiên nhiên mà còn phải biết lợi dụng hoàn cảnh, phải khôn ngoan, sáng tạo để nối dài cánh tay của mình trong mối liên hệ với môi trường, hoàn cảnh. Chính khả năng này của con người làm cho nó vừa thich nghi với hoàn cảnh, môi trường sống, vừa tự giải phóng cho mình. Ph.Angel đã từng nói, mỗi bước đi của văn hóa là mỗi bước con người đến với tự do.
Đặc điểm này với người Nam Bộ thể hiện rõ nét ở sự tiêu dùng. Người Nam Bộ gọi là “xài”, “tiêu xài”. “Tiêu xài” vừa có nghĩa là “tiêu dùng”, vừa có nghĩa “chơi” trong đó. Ta vẫn hay nghe người Nam Bộ nói chuyện đi mua sắm là để “xài chơi”.Từ chiếc nồi cơm điện, bánh xà phòng, dầu gội đầu, đến những trang phục như quần áo, giầy, dép, v.v… đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, sinh hoạt hàng ngày, người Nam Bộ đều gọi là “xài”. Có lẽ “xài” với người Nam Bộ là một quan niệm sống. Sống phải tiêu dùng để đáp ứng nhu cầu tồn tại của con người, nhưng còn phải biết “chơi” để thể hiện nhu cầu tinh thần của con người trong đời sống. Chính từ quan niệm này, người Nam Bộ tiếp cận với khoa học kỹ thuật nhanh hơn những vùng đất khác. Vì rằng, khi con người sử dụng các phương tiện với nghĩa là “chơi”, họ đến với nó một cách hồn nhiên. Coi máy móc, phương tiện hiện đại như chiếc xe máy, chiếc máy phát điện, chiếc máy bơm nước, chiếc máy cày, v.v… chỉ là một thứ để “xài chơi”. Khi đã ‘xài chơi” thì cái phương tiện với giá trị vài chục triệu đồng ở những vùng quê khác là thứ tài sản thì với người Nam Bộ là phương tiện. Khi đã là phương tiện thì con người sử dụng nó rất thoải mái. Vì vậy, sự xâm nhập của phương tiện khoa học kỹ thuật vào đời sống con người dễ dàng hơn. Con người nhanh chóng làm chủ phương tiện và sử dụng nó thành thạo đến mức “sành điệu” nữa là khác.
Mặt khác cũng phải nói thêm rằng, để thích ứng với phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại, người Nam Bộ cần được trang bị tri thức đầy đủ và toàn diện. Con người sống trọng đạo lý, tình nghĩa, nhưng phải trọng tài, trọng pháp luật, hướng tới lợi ích chung của cả cộng đồng. Sự hào phóng nhưng hào phóng đến “xả láng” không chỉ hao tổn tiền của mà cả sức khỏe. Điều này trong mặt trái của tình hình kinh tế thị trường hiện nay nếu không hạn chế cũng dẫn đến tiêu cực.
Người Nam Bộ trong lịch sử là người “mang gươm đi mở cõi”, trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm có “hào khí Đồng Nai”, trong hiện tại, cung cách làm ăn của người Sài Gòn, người Nam Bộ thoáng hơn, cởi mở và thực tế hơn chắc chắn sẽ là những con người đóng góp đầy sáng tạo cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của dân tộc Việt Nam ngày hôm nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-Phan An-Nguyễn Thị Nhung, Người Nam Bộ trước và trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, in trong sách:Những thành tựu khoa học xã hội và nhân văn ở các tỉnh phía Nam trong thời kỳ đổi mới, Nhà xuất bản Khoa học xã hội- 2003.
2-Nguyễn Đình Chiểu, Dương Từ Hà Mậu, Nhà xuất bản Tổng hợp Long An, 1982.
3-Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
4-Lê Xuân Diệm, Đồng bằng Nam Bộ trong buổi đầu tiếp xúc Đông-Tây, in trong sách:” Những thành tựu khoa học xã hội và nhân văn ở các tỉnh phía Nam trong thời kỳ đổi mới”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội- 2003
5-Trần Bạch Đằng,Tính năng động và sáng tạo của người Việt sống trên đất phương Nam, Kỷ yếu hội thảo: “Nam Bộ và Nam Trung Bộ- Những vấn đề lịch sư thế kỷ XVII-XIX”, Trường Đại học Sư phạm, TP.Hồ Chí Minh, tháng 5-2002.
6-Trịnh Hoài Đức 1820/1998, Gia Định Thành thông chí, H.,Nxb. Gio dục ( phối hợp với Viện nghin cứu Sử học)
7-Nguyễn Đức Hiệp, Lịch sử người Minh Hương và người Hoa ở Nam Bộ, http:// vanhoahoc.com
8-Đoàn Lê Giang, Văn học quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến 1945- thành tựu và triển vọng, t/c Nghiên cứu văn học, số 7/2006
9-Ngô Văn Lệ, Làng Việt Nam Bộ trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, in trong sách: “Những thành tựu khoa học xã hội và nhân văn ở các tỉnh phía Nam trong thời kỳ đổi mới”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội- 2003.
10-Mác-Ăngghen-Lênin, Về văn học nghệ thuật, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1997.
11-Dương Hoàng Lộc,Mấy suy nghĩ về tính khoan dung trong văn hóa Nam Bộ, T/c Khoa học xã hội, số 3 (79), 2005
12-Hà Thúc Minh, Văn hóa Sài Gòn trong chỉnh thể văn hóa Việt Nam đầu thời Nguyễn, T/c Khoa học xã hội số 68, 2004
13-Nguyễn Phương Nam, Mấy đặc điểm của con người ở vùng văn hóa phương Nam, t/.c Khoa học xã hội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam- Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, số.8/2004.
14- Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nhà xuất bản Văn nghệ TP. Hò Chí Minh, 1994.
15-Sơn Nam,Đồng bằng sông Cửu Long-nét sinh hoạt xưa và văn minh miệt vườn, Nxb.Trẻ, 2004
16- Trần Văn Nam, Tính cách Nam Bộ qua biểu trưng ca dao, http:// vanhoahoc.com
17-Nguyễn Quang Ngọc, Cấp thôn ở Nam Bộ thế kỷ XVII-XVIII-XIX, t/c Khoa học xã hội số 10( 98), 2006.
18-Nguyễn Qưới, Nhìn lại quy hoạch tổng thể đồng bằng sông Cửu Long, T/c Khoa học xã hội số 77, 2005
19-Bùi Thị Tân, Công cuộc khẩn hoang lập đồn điền ở Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XIX dưới triều Nguyễn, T/c Khoa học xã hội số 5( 81), 2005
20-Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb.Tp.Hồ Chí Minh, 2001
21-Trần Ngọc Thêm,Tính cách văn hóa người Việt Nam Bộ như một hệ thống, http://vanhoahoc.com
22-Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, TP.Hồ Chí Minh, 2004
23-Văn hóa Oc Eo và các văn hóa cổ ở đồng bằng sông Cửu Long, Sở Văn hóa và thông tin An Giang- 1984.
24-Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Lược sử vùng đất Nam Bộ (1802-1954), Nxb Thế Giới năm 2006. In lại trong tạp chí Xưa Nay- Cơ quan Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, số 284 ( tháng 5/ 2007), tr.12,13,14,32.
25- Lịch sử chiến khu- Hào khí Đồng Nai, Nhà xuất bản Đồng Nai-1997.
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập. Đồng Nai – 2009.
[1] Người Nam Bộ, chúng tôi muốn nói đến cộng đồng cư dân người Việt, một cư dân chủ thể trên vùng đất Nam Bộ hơn mấy thế kỷ qua.
[2] Sơn Nam, Đồng bằng sông Cửu Long-nét sinh hoạt xưa và văn minh miệt vườn, Nxb. Trẻ, TP.Hồ Chí Minh, 2004, tr.50
[3] Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb. Trẻ, TP.Hồ Chí Minh, 2004, tr.289
[4] Dương Hoàng Lộc, Mấy suy nghĩ về tính khoan dung trong văn hóa Nam Bộ, t/c Khoa học x hội số 3 (79), 2005, tr.69
[5] Bài viết được công bố lần đầu tiên tại hội thảo “Đồng bằng sông Cửu Long thực trạng và giải pháp để trở thành vng trọng điểm phát triển kinh tế giai đoạn 2006-2010” do ĐHKHXH & NV thuộc ĐHQG TP.HCM tổ chức năm 2006. Sau đó tác giả có sửa chữa và bổ sung với nhan đề: “Tính cách văn hóa người Việt Nam Bộ như một hệ thống” v trình by tại Hội thảo “ Nam Bộ thời kỳ cận đại” do Bộ Khoa học v cơng nghệ phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử tổ chức tại TP.Cần Thơ ngày 4/3 năm 2008. Văn bản chng tơi sử dụng trong bài viết là văn bản đ được sửa chữa v bổ sung, được đăng trên website của Khoa Văn hóa học ( trường Đại học KHXH &NV) http://vanhoahoc.com
[6] Chẳng hạn: Bài viết của Trần Văn Nam, Tính cách Nam Bộ qua biểu trung ca dao, đăng trên website : http://vanhoahoc.com; Luận văn thạc sĩ Ngữ Văn của Tôn Thị Mai Thanh “ Đặc điểm Nam Bộ trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu”, Đại học Vinh -2008. Trong luận văn này, tác giả đã dành một số trang để tìm hiểu tính cách con người Nam Bộ trong truyện thơ Nôm Nguyễn Đình Chiểu và trong các thể loại thơ Đường luật, văn tế, hịch.
[7] Những điều đã viết trên đây dựa trên cơ sở tài liệu khảo cổ học. Chẳng hạn, trong bài “Đồng bằng Nam Bộ trong buổi đầu tiếp xúc Đông-Tây”, Lê Xuân Diệm viết: “ Loại di tích kiểu “nhà sàn” dựng trên cọc gỗ mang đặc trưng văn hoá bản địa đậm nét, có điạ bàn phân bố rải rác trên các đầm lầy ngập mặn, từ Bà Rịa ( Bưng Bạc, Bưng Thơm) qua Long Thành ( Cái Vạn, Rạch Lá) đến Long An (Rạch Rừng….); thậm chí còn thấy dấu tích của nó tại tầng đất sâu của di tích Gò Tháp ( Tháp Mười- Đồng Tháp). Có thể nói, đây là loại di tích của cư dân bản địa, mở đầu công cuộc khai phá vùng đất mới ven biển và ven châu thổ sông Cửu Long” ( Lê Xuân Diệm, Đồng bằng Nam Bộ trong buổi đầu tiếp xúc Đông-Tây, in trong sách:Những thành tựu khoa học xã hội và nhân văn ở các tỉnh phía Nam trong thời kỳ đổi mới, Nhà xuất bản Khoa học xã hội- 2003, tr. 833)
[9] Phan An- Nguyễn Thị Nhung, Người Nam Bộ trước và trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoa, in trong sách:Những thành tựu khoa học xã hội và nhân văn ở các tỉnh phía Nam trong thời kỳ đổi mới,Nhà xuất bản Khoa học xã hội- 2003, tr. 936.
[10] Theo Hiệp ước 1862 và Hiệp ước 1874, vùng đất Nam Bộ ( trước đó được chia thành các trấn thuộc phủ Gia Định, từ 1832 dưới thời vua Minh Mạng lại chia thành 6 tỉnh trực thuộc trung ương ) thuộc Pháp. Ngày 8 tháng 3 năm 1949, tổng thống Pháp V.Orion đã ký với quốc trưởng Bảo Đại Hiệp ước Elide, theo đó Pháp chính thức trả lại Nam Bộ cho quốc gia Việt Nam. Như vậy, Nam Bộ nằm trong Quy chế “lãnh thổ hải ngoại của Pháp” từ 1862-1949 (Xưa Nay (2007), Lược sử vùng đất Nam Bộ(1802-1954), tr.32 ).
[11] Trong bài viết của Đặng Thế Đại, in trên t/c Nghiên cứu tôn giáo, Viện nghiên cứu tôn giáo, số 58 (4/2008, website của Khoa Văn hóa học ( Trường Đại học KHXH &NV đăng lại ngày 5/82009), nhan đề “ Tính đặc sắc Nam Bộ và truyền thống văn hóa Việt Nam qua một số dịng tơn gio”, tc giả đ cĩ nhận xt tương tự “ Nhờ dẫn đầu về tiếp xúc văn hóa, Nam Bộ trở thành đầu tàu cho cả nước trong đổi mới văn hóa”.