Ở Nam Bộ, đình thần là một “thiết chế văn hoá” điển hình, giàu sức sống, có tính bao trùm trong sinh hoạt văn hoá của làng xã. Đó là điểm son rực rỡ về văn hoá của các triều đại phong kiến nước ta, đặc biệt là triều Nguyễn.
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay còn khoảng 270 đình thần, nằm rải rác khắp các địa bàn dân cư, ít nhất ở quận Phú Nhuận (chỉ có 1 đình thần, đình Phú Nhuận), nhiều nhất ở huyện Bình Chánh (khoảng 60 đình thần), ở trung tâm quận 1 còn khoảng 10 đình thần. Sự phân bố khá tập trung và rộng khắp ấy cho thấy đình thần ngày trước có vị trí quan trọng trong đời sống sinh hoạt của dân cư vùng đất Bến Nghé –Gia Định. Điều này phù hợp với sử liệu tập hợp dân cư người Việt ở Nam Bộ, trong quá trình “khai hoang lập ấp” vài ba thế kỷ gần đây.
Có thời kỳ đình thần từng bị coi là “phế tích” phải dẹp bỏ, vì đó là biểu tượng của chế độ phong kiến, của tập quá thờ cúng lạc hậu, mê tín dị đoan, không phù hợp ở thời công nghiệp đô thị hoá, không có vai trò gì nữa trong thời kỳ xây dựng xã hội mới. Hoặc có người cho đó là “trung tâm tín ngưỡng”, cơ sở Tôn giáo hoặc Tín ngưỡng dân gian, nên lúng túng giữa yêu cầu phát triển đô thị và chính sách tôn trọng “tự do tín ngưỡng” của Nhà nước…Xuất phát từ chân lý đã được khẳng định là không dùng nhãn quan thời đại để “phán xét” quá khứ; qua nghiên cứu giá trị lịch sử, tính chất và ý nghĩa của đình thần trong bối cảnh cư dân nông nghiệp thời đại phong kiến nước ta nói chung, đặc biệt đối với lưu dân Nam Bộ nói riêng, chúng tôi cho rằng Đình thần là một “thiết chế văn hoá” điển hình, giàu sức sống, có tính bao trùm trong sinh hoạt văn hoá của làng xã ở Nam Bộ và là một điểm son rực rỡ về văn hoá của các triều đại phong kiến nước ta, đặc biệt là triều Nguyễn.
Tiếp cận với cốt lõi giá trị truyền thống của đình thần là mục đích của bài viết. Trong điều kiện hạn chế mọi mặt, ắt hẳn chúng tôi không tránh khỏi sự phiến diện hoặc chủ quan. Mong sự thông cảm và góp ý của người đọc.
Khác với đình ở Trung Quốc xuất hiện từ nhu cầu tín ngưỡng thờ thành hoàng[1], thuộc sinh hoạt văn hoá thị dân, đình thần ở nước ta ban đầu có thể là đình trạm (chỗ nghỉ chân giữa các làng) của dịch trạm, phục vụ nhu cầu đi lại liên thông làng xã. Chế độ phong kiến Việt Nam góp phần gắn kết thêm yếu tố tôn giáo, quy tập các hình thức tín ngưỡng dân gian vào đình[2], lồng vào đó cả yếu tố cư sở hành chánh quản lý theo thang bậc truyền thống của làng xã (hình thành kiểu cách quản lý xã hội đặc trưng mà có người cho là “chế độ cộng hoà” làng xã) và định hướng mọi hoạt động của làng xã (chủ yếu thuộc đời sống tinh thần) theo mô hình “mẫu”, phiên bản của triều đình phong kiến (có người gọi là “tiểu triều đình”). Sự “can thiệp” của chế độ phong kiến đạt đến đỉnh điểm khi vua tự dành cho mình quyền lực tối cao “sắc phong” thành hoàng cho các vị thần thay mặt vua nắm quyền lực tối cao “trấn nhậm” ở làng xã. Yù nghĩa của các sắc thần thành hoàng, do đó, không ngoài mục đích chính trị: xác lập và củng cố vương quyền, từ trung ương đến mọi ngóc ngách của cơ sở trong một thể liên hoàn thống nhất[3]. Do đó trong quá trình tồn tại của mình, đình thần đóng vai trò làm gạch nối giữa làng –nước, có tính bao trùm hầu hết sinh hoạt “kiến trúc thượng tầng” của làng xã, có tính thu hút và phổ biến, trở thành “mảnh đất màu mỡ” của nền tảng xây dựng nhân cách, lối sống phù hợp.
Đình thần không phải là mô hình thiết chế áp đặt từ bên trên đối với làng xã, mà sức sống của nó phát xuất từ bên trong, được biểu hiện ở các mặt văn hoá tín ngưỡng khá gần gũi, thậm chí hết sức gắn bó với đời sống sinh hoạt của cư dân nông nghiệp. Đình thần thoả mãnh nhu cầu tri thức dưới dạng biểu hiện của tôn giáo, phù hợp với trình độ nhất định tư duy của cư dân nông nghiệp. Đó cũng là nơi để họ thể hiện hoặc gởi gấm những tâm tư, tình cảm sâu kín nhất về diễn cảnh đời sống phàm thực được linh khí hoá. Từ các hình thức lễ tế “xuân thu nhị kỳ” theo chu kỳ sản xuất nông nghiệp; đến lễ xây chầu – đại bội hàng năm trong dịp lễ Kỳ Yên (cầu mong sự lành, bày tỏ ước nguyện quốc thái dân an) là dạng thức văn hoá nhân bản thể hiện quan niệm mang màu sắc tín ngưỡng về sự lý sinh thành của muôn loài vạn vật (lễ khai thiên tịch địa, lễ xang nhật nguyệt, lễ đứng cái…) được lễ thức hoá, diễn xướng hoá, có thể xem đó là dạng mô hình “sân khấu hoá” trang kính và sinh động. Một dạng hình khác thường mang tính chất “hội” của tuồng tích giải trí, như hát bội của các đình thần Nam Bộ lại nặng về yếu tố “lễ” (sân khấu vở ca quay về chánh điện, diễn cho thần xem), hoặc “lễ hoá” (tuồng tích được ưa thích thời kỳ này là San Hậu trở thành lễ thức Tôn vương). Những chuyện “trò đời” nhờ “thần” chứng giám, hoặc như là một thức “của lễ” dâng lên thần, một mặt thể hiện sự tôn kính đối với linh khí thiêng liêng của trời đất, mặt khác còn là hình thức diễn xướng thu hút, quảng đại, hiệu quả để giáo dục truyền thống trung hiếu - nhân nghĩa ở đới. Cho đến nay trong dân gian còn lưu truyền việc thề nguyền trước đình thần lời thề độc, bất khả tư nghị. Điều này nói lên ảnh hưởng, tác động một thời của đình thần trong đời sống dân cư.
Dựng đình đồng thời với quá trình lập làng vừa là nhu cầu tinh thần có thật của lưu dân Nam Bộ, vừa nói lên thành công về mặt văn hoá chính trị xã hội của chế độ phong kiến nước ta. Đúng như nhà văn hoá Sơn Nam đã khái quát: “Xây dựng đình làng là nhu cầu tinh thần. Có đình thì mới tạo được thế đứng, gắn bó vào cộng đồng dân tộc và càn khôn vũ trụ; bằng không thì chỉ là lục bình trôi sông, viên gạch rời rạc, một dạng “lưu dân tập thể… ” [Sơn Nam 2006: 21].
Người Việt có mặt ở Nam Bộ không phải bắt đầu từ cột mốc 300 năm[4], mà có thể bắt nguồn từ một qui luật được khái quát ở thế kỷ 16: “Hoàng sơn nhất đái, vạn đại dung thân”[5]. Hoặc trước đó nữa, vì nếu coi văn minh trống đồng Đông Sơn ở Thanh Hoá là cái nôi văn hoá – văn minh của người Việt, thì trong quá trình phát triển tộc người, họ đã tiến hành hai cuộc di dân lớn: đi về phía Bắc khai phá vùng đồng bằng sông Hồng, và đi về phương Nam để “khai hoang lập ấp”. Đây chính là quá trình di dân “hoà bình”, xuất phát từ yêu cầu phát triển tất yếu về văn hoá – văn minh, từ cơ sở kinh tế –xã hội của quá trình tộc người. Không nên hiểu giản đơn coi đó là sự xâm lược, đồng hoá, đô hộ, hoặc cắt đất nhường dân”…giữa các thế lực phong kiến thù nghịch. Cũng vậy, lưu dân người Việt đến “sinh cơ lập nghiệp” ở Nam Bộ[6] trước khi trở thành dân tộc chủ thể thuộc Nhà nước phong kiến, thì chính họ trước hết đã dần dần xác lập nên tộc người chủ thể trên vùng đất mới, kể cả việc chi phối các đơn vị xã hội tộc người khác, đặc biệt là đối với các lưu dân người Hoa (làng Minh Hương).
Mặc dù vậy, khi người dân đất “Ba Giồng” trở thành dân “hai huyện”, người Việt lập làng thường đi đôi với việc dựng đình. Đình thần hồi đó có thể chỉ là căn liều mái lá đơn sơ như cái miễu thờ (gọi là miễu Hội đồng, miễu thành hoàng làng), không có ngẫu tượng (thông thường chỉ có một chữ “thần” viết bằng chữ Hán), không có thần tích, không có hoặc chưa có sắc thần. Việc lập đình thần trong cộng đồng dân cư ở Nam Bộ chính là sự liền mạch với truyền thống văn hoá cội nguồn ở quê cha đất Tổ, là nhu cầu tâm thức của lưu dân Nam Bộ, dù kiếp sống tha phương lưu đày vẫ không quên nòi giống dân tộc Việt.
Vì vậy, có thể khái quát đình thần của người Việt ở Nam Bộ không thuần túy mang sắc thái tôn giáo tín ngưỡng, không phải là “trụ sở hành chánh” của chế độ phong kiến, …mà đó là một tổng hoà hầu như toàn bộ đời sống sinh hoạt của cư dân, là sự phản ánh “phàm –thiêng” đời sống hiện thực, là điểm tập hợp cố kết cộng đồng, ý thức nguồn cội, trở thành nguồn động lực tinh thần vô giá cho các ý tưởng dấn thân, lối sống nhân nghĩa, làm thăng hoa đời thường. Thông qua đình thần, triều Nguyễn không chỉ xác lập chủ quyền thống nhất phần đất phía Nam Tổ quốc về mặt lãnh thổ, mà người dân Nam Bộ còn hấp thu khá trọn vẹn khí thiêng sông núi hàng nghìn năm của dân tộc, trở thành một thể thống nhất hữu cơ với triều đình phong kiến[7]. Không những thế, sự kết hợp này còn tạo nên lực lượng, biến thành sức mạnh tự thân đầy khí khái yêu nước của người dân Nam Bộ trong cuộc đối đầu lịch sử với chủ nghĩa thực dân đế quốc của thời đại.
Văn hoá có tính lịch sử nên thường đi với truyền thống. Cắt đứt với truyền thống là phi văn hoá. Truyền thống lịch sử không bất biến mà chịu biến thiên theo qui luật vận động của tự nhiên. Song giá trị của truyền thống thì trường tồn. Không ai lấy nước hai lần trên một dòng sông. Dòng sông văn hoá không tĩnh tại mà luôn ở dạng động thái. Đó là quy luật của sự phát triển. Nguyễn An Ninh quan niệm: Văn hoá là tâm hồn của dân tộc. Trong bài báo “Ước mơ của chúng ta”, ông viết: “Nói đến sự trường tồn của một giống nòi, trước hết là nói đến văn hoá, nói đến sức sống của dân tộc” [Nguyễn Phan Quang 1998]. Nghị quyết trung ương 5 xác định văn hoá là nguồn động lực tinh thần và đề ra nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Bản sắc không phải là vốn cổ cần hồi phục mà là “hơi hướng” của truyền thống. Bản sắc không tồn tại ở dạng vật thể xơ cứng, mà giá trị của bản sắc chính là HỒN DÂN TỘC. Đã qua rồi thời kỳ đình thần là biểu tượng độc tôn của văn hoá dân tộc. Song bài học kinh nghiệm của tiền nhân về sức sống của đình thần đối với chúng ta thật đáng trân trọng biết bao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sơn Nam 2006: Đình miễu và lễ hội dân gian. - Tp. HCM: Nxb Trẻ.
- Nguyễn Phan Quang 1998: Nguyễn An Ninh – bàn về truyền thống và văn hoá dân tộc. - Báo SGGP thứ bảy, 22-8.
Nguồn: In trong: Những vấn đề Khoa học Xã hội & Nhân văn – Chuyên đề Văn hoá học, Tp.HCM - Nxb Đại học Quốc gia, 2013
[1] Từ việc đắp đất làm “thành” đào hàm làm “hoàng” (hào có nước được gọi là “trì”). Ở Trung Quốc, thần thành hoàng được tế tự từ trước đời Tần, còn gọi là thần Thuỷ Dung hoặc thần giữ thành.
[2] “Hồng Đức thiện chính thư” có ghi: có lúc đình là sở hữu cá thể chứ không phải là sở hữu tập thể của làng, xã…Thời Nhà Lê, năm 1496, có tờ lệnh buộc các xã từ nay phải trông coi việc thờ cúng ở đình …trước sau không được thay đổi.
[3] Hầu hết đình thần ở Nam Bộ có sắc phong năm Tự Đức ngũ niên (1852). Năm nay, vua Tự Đức phong ban một loạt 13.069 sắc thần cho cả nước.
[4] Năm 1698 được đánh dấu bằng sự kiện Quốc Chúa Nguyễn Phước Chu sai phái Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, chia đất Đông Phố (Đồng Nai ngày nay) làm huyện Phước Long (lập dinh Trấn Biên, tức Biên Hoà ngày nay); lấy xứ Sài –côn làm huyện Tân Bình (lập dinh Phiên Trấn, tức Gia Định ngày nay), lập làng, ấp, định ra thuế khoá.
[5] Có ý kiến cho đó là câu sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Điều này còn là nghi vấn lịch sử, một giả thuyết khoa học. Có phần chắc là nó phản ánh một hiện tượng xã hội đang diễn ra ở thời kỳ này.
[6] Lưu dân là hiện tượng xã hội có từ thời phong kiến. Người phạm tội “lưu” (thuộc ngũ bình: xuy, trượng, đồ, lưu, tử) về nguyên tắc vĩnh viễn không được trở về quê quán. Đáng chú ý là họ được đem theo gia đình thân thích, cơ sở xã hội chủ yếu hình thành quá trình tộc người. Lưu dân cũng có thể là “dân nghèo khổ xiêu tán đi biệt”. Có cơ sở xã hội từ thời Hậu Lê chiến tranh loạn lạc liên miên, hoặc thời Trịnh –Nguyễn phân tranh hàng mấy thế kỷ. Mặt khác, gốc gác người Việt ở Nam Bộ phần lớn là dân Ngũ Quảng, từ Bố Chánh trở vào. Họ đã hơn một lần chia lìa “núm ruột” đất đai làng xã của mình ở quê hương đất Tổ, tức là đã vượt thoát ra ngoài các lề thói kềm toả hàng nghìn năm của nếp sống sinh hoạt “họ hàng – làng nước”. Cho nên họ còn là những lưu dân “tự do”.