1. Trong khuôn khổ địa phương huyện Tịnh Biên nói riêng, việc tìm hiểu và đề xuất những vấn đề Địa danh học địa phương có ý nghĩa cho việc tìm hiểu lịch sử, dấu ấn văn hóa của một vùng đất vốn có bề dày lịch sử, nhằm giáo dục tình yêu và sự hiểu biết quê hương cho thế hệ trẻ; đồng thời, đó cũng là một kênh “tiếp thị” giúp du khách đến tham quan, du lịch địa phương không chỉ “mục sở thị” mà còn nắm bắt được những gì liên quan đến lịch sử, văn hóa bản địa một thời.
2. 1. Địa danh được hiểu là tên gọi của một vùng đất, phản ánh nhận thức của người xưa thông qua việc đặt tên. Khái quát con đường hình thành địa danh có thể hình dung vấn đề như sau: thường việc đặt tên có thể xuất phát từ 2 nguồn: cá nhân và tổ chức. Xuất phát từ cá nhân là do ai đó lần đầu gọi tên và tên gọi ấy được cộng đồng địa phương tiếp nhận, gọi riết thành quen. Kết quả của con đường hình thành địa danh theo cách này thường là lớp địa danh dân gian. Lớp địa danh dân gian thường gồm những yếu tố thuần Việt, cũng có thể là cách đọc trại âm của ngôn ngữ bản địa, Khmer hoặc Chăm, như: “Rạch Dừa, Rạch Giá, Rạch Miễu, Ngã Bảy, Ngã Năm, Bến Bạ, Giáp Nước, Núi Voi, Núi Cấm…; Sóc Trăng, Sóc Vồ, Tà Đảnh, Tà Lọt, Tà Ngao, Tà Niền, Trà Canh, Trà Cú, Trà Kha, Trà Sư…”. Còn xuất phát từ tổ chức là do một nhóm người có trách nhiệm, thuộc tổ chức nhà nước, đứng ra đặt tên. Kết quả của con đường hình thành địa danh theo lối này thường là lớp địa danh hành chính Hán Việt, như: “An Biên, An Bình, An Đức, An Hiệp, Long An, Long Hồ, Long Khánh, Long Hải, Vĩnh Bảo, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc, Vĩnh Thông...”. Để thành địa danh dân gian - cá nhân, tên gọi này thường phải chịu sự sàng lọc của cộng đồng và trải qua thời gian dài mới thành địa danh, vì có thể trong thời gian, cùng tồn tại nhiều tên gọi; nhưng không phải tên gọi nào cũng thành địa danh được cộng đồng đón nhận. Còn để thành địa danh hành chính - tổ chức, tên gọi này có thể sớm được định hình; nhưng vấn đề thời gian và ý thức cộng đồng cũng là phép thử cho sự trường tồn của địa danh do tổ chức định ra, vì không phải mọi địa danh hành chính đều được công chúng đón nhận hoặc sử dụng lâu dài. Tất nhiên, hai hướng hình thành này có thể tiếp nhận lẫn nhau: có thể có xu hướng từ con đường cá nhân được cộng đồng tiếp nhận rồi tổ chức nhà nước công nhận; cũng có thể từ con đường tổ chức nhà nước được cộng đồng tiếp nhận, chuyển hóa chừng mực qua hình thức biến âm, biến nghĩa theo xu hướng “dân gian hóa”.
2. 2. Trở lại vấn đề địa danh huyện Tịnh Biên, khảo sát lớp địa danh ở đây, chúng tôi nhận thấy, cũng không ngoài hai hướng định danh như đã khái quát trên với 3 lớp địa danh cụ thể như sau:
2. 2. 1. Lớp địa danh phần lớn có nguồn gốc thuần Việt hình thành từ con đường dân gian (con đường cá nhân) có các địa danh, như: “Bảy Núi, Núi Cấm, Núi Dài, Núi Két, Núi Voi, Nhà Bàng hay Nhà Bàn, kinh Đòn Dông, kinh Mới, kinh Xáng Cụt, kinh Bốn Xã, kinh Tám Ngàn, kinh Ranh, kinh Đường Trâu…”.
2. 2. 2. Lớp địa danh phần lớn có nguồn gốc Khmer hình thành từ con đường dân gian (con đường cá nhân) có các địa danh, như: “Tà Đảnh, Tà Lọt, Tà Ngao, Trà Sư, Trà Nghinh…”.
2. 2. 3. Lớp địa danh phần lớn có nguồn gốc Hán Việt hình thành từ con đường hành chính (con đường tổ chức) có các địa danh, như: “An Cư, An Nông, An Thạnh, An Tức, Bích Trì, Nam Chỉ, Nam Quy, Nhơn Hòa, Ô Lâm, Phú Thạnh, Tân Lập, Thất Sơn, Thới Sơn, Tĩnh Biên, Tuy Biên, Vĩnh Thông, Vĩnh Bảo, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc, Vĩnh Quới, Vĩnh Trung, Thân Nhân Lý…”.
2. 3. 1. Để giải thích các lớp địa danh này, đòi hỏi một phạm vi hiểu biết khác nhau. Chẳng hạn: với lớp địa danh Thuần Việt thì cần vốn hiểu biết thực tế, vì lối định danh này thường xuất phát từ thực tiễn, mà thực tiễn của người Nam Bộ nói chung, là từ sự cảm nhận thực tế đơn giản mà hình thành tên gọi. Bởi đó, có thể tồn tại cùng lúc nhiều cách gọi và cách giải thích khác nhau, như địa danh “Nhà Bàn” và “Nhà Bàng”. Tìm hiểu về 2 địa danh này, xin được nêu vài kiến giải và quan điểm nhìn nhận vấn đề như sau:
2. 3. 1. 1. Thơ ca dân gian mà chúng tôi sưu tầm được tại Tịnh Biên do ông Dương Văn Đoàn, sinh năm 1925, ấp Sơn Tây, xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên trong công trình “Văn học dân gian An Giang” có bài sau: “Đốc công tạo lập sở vườn, Thanh hoa đẳng vật coi thường vẻ vang. Cất bên một cái nhà bàn, Để khi ăn uống nghỉ an luận bàn. Sau lập chợ phố hai hàng, Người đều kêu chợ Nhà Bàn thành danh.”(1)
Cũng theo tác giả Nguyễn Liên Phong trong “Nam Kỳ phong tục Nhân vật Diễn ca”, NXB. Đinh Thái Sơn, Sài Gòn, năm 1909, cũng có bài thơ được sưu tầm nêu trên để nói lên quan điểm của tác giả về địa danh “Nhà Bàn” được lí giải đại ý là “nhà được cất lên để dùng làm chỗ bàn bạc, trao đổi, nghỉ ngơi nhằm tiện cho việc chỉ đạo công việc; nói cách khác là “nhà chỉ huy”: “Về“tên Măn-xê (Manset) lập sở trồng cây ăn trái và cây kỹ nghệ ở khu vực “Nhà Bàn”, nhưng có thể hiểu diện tích của sở này không tập trung xung quanh Nhà Bàn mà bao gồm vùng rộng lớn. Do địa hình, phương tiện khai thác hạn chế, cây ăn trái, kỹ nghệ được trồng phân tán theo triền núi, đồi đất ở xã lân cận Nhà Bàn: Thới Sơn, An Phú, Nhơn Hưng hay Vĩnh Trung… Việc đặt một“nhà bàn”- ở trung tâm sở“để khi ăn uống nghỉ ngơi luận bàn”là nhằm quản lý chặt chẽ công nhân (dân địa phương) trong quá trình làm công ở sở.”(2)
2. 3. 1. 2. Lại có ý kiến của một số người dân địa phương cho rằng: “Nhà Bàn” vốn là một cái “nhà” chợ mà chợ nhóm có thời gian, nên trong nhà vào những lúc không nhóm chợ chỉ thấy toàn “bàn” với “bàn”?(3)
2. 3. 1. 3. Còn theo Lê Trung Hoa: “Nguyên trước đây tại vùng này có một cái nhà chuyên giã cỏ bàng để đan các dụng cụ như bao, giỏ, đệm… Cọng cỏ bàng thân tròn, cứng, nếu không giã thì khó trong việc đan và sử dụng các sản phẩm. Do đó, vùng này có địa danh Nhà Bàng…”(4)
2. 3. 1. 4. Ngoài ra còn có nhiều nhà nghiên cứu đồng nhất với quan điểm Lê Trung Hoa, nhưng lí giải khác: Nhà Bàng là xứ có nhiều cỏ bàng, dùng làm các sản phẩm phục vụ đời sống, người dân gọi quen nhà chứa cỏ bàng thành “Nhà Bàng”(5)
2. 3. 1. 5. Lại cũng có ý kiến cho rằng, sở dĩ xuất hiện tên gọi “Nhà Bàng” là do: chung quanh nhà này người ta trồng nhiều cây Bàng (loài cây thân gỗ lớn thuộc họ Trâm Bầu) chung quanh nên người dân gọi “Nhà Bàng”.(6)
2. 3. 2. Từ 5 kiến giải về “Nhà Bàn” hay “Nhà Bàng”, có thể khẳng định tất cả các ý kiến này đều dựa trên nội dung từ ngữ để giải thích và đều căn cứ vào nội dung từ vựng của hai thành tố “nhà” và “bàn” hay “bàng” mà lí giải khác nhau. Bởi đó, không thể nói ý kiến nào sai; nói khác đi, ý kiến nào cũng có điểm đúng của nó. Nhưng như nhận định khái quát (từ đề mục 2. 3.) thì việc đúng sai của nhóm địa danh thuần Việt được hình thành từ con đường dân gian phải là vốn hiểu biết thực tiễn (các chỗ in đậm là do người viết muốn nhấn mạnh). Do vậy, 5 ý kiến nêu trên, dù có thể có ý kiến được công chúng đón nhận với tỉ lệ nhiều hơn, nhưng cũng không thể vì tỉ lệ cao hơn mà quả quyết ý kiến ấy đúng. Theo chúng tôi, trong trường hợp này, nên nhìn nhận cả 5 kiến giải và có thể xếp đánh giá theo tỉ lệ cao thấp của các kiến giải mà chấp nhận các cách giải thích về địa danh này. Trừ phi, chúng ta có thêm được những chứng liệu thực tiễn.
2. 3. 3. Một trường hợp khác về địa danh “Núi Cấm”, với địa danh này không chỉ có sự bất đồng tên gọi, mà lại có cả sự bất đồng trong kiến giải. Cụ thể như sau:
2. 3. 3. 1.Theo Trịnh Hoài Đức trong “Gia Định thành thông chí”, ngọn núi này được gọi là “núi Đài Tốn” (lại có người gọi là “Đoài Tốn”). Theo tác giả, núi cao 50 trượng, chu vi hơn 20 dặm, hình núi như cái đài cao sừng sững hướng Thìn Tỵ nên mới gọi là núi Đài Tốn...”(7)
2. 3. 3. 2. Với tên gọi “Núi Cấm” thì có các kiến giải khác nhau về lí do để hình thành tên gọi này:
1. Theo Nguyễn Văn Hầu, sở dĩ có tên gọi “Núi Cấm” là do Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên “cấm” các tín đồ của mình lên đó cất nhà lập am, bởi sợ sẽ ô uế chốn núi thiêng.(8)
2. Một giả thuyết khác, do Nguyễn Phúc Ánh bị Tây Sơn truy đuổi, nên phải vào núi này nương thân. Muốn tông tích được giấu kín, các cận thần phao tin có ác thú, yêu quái, để cấm dân chúng vào núi.
3. Cũng có ý kiến cho rằng, đây là sào huyệt của bọn cướp nên để giữ yên bình cho dân chúng, nhà chức trách đương thời phải ra lệnh cấm họ đến vùng này.(9)
2. 3. 4. Với tên gọi “Đài Tốn”, “Thiên Cấm Sơn”, “Núi Cấm”, rõ ràng 2 tên gọi đầu có thể được ghi trong sách vỡ, tức lớp địa danh được nhìn nhận từ con đường tổ chức, nhưng công chúng lại ít quen sử dụng; trái lại, họ chỉ dùng tên gọi được định danh theo hình thức cá nhân, dân gian là “Núi Cấm”. Tuy nhiên, từ 3 cách kiến giải nguyên do như đã nêu, chúng tôi nghĩ rằng: Cả ba kiến giải thích cũng đều dựa trên nội dung ngữ nghĩa của từ ngữ để giải thích, nên hoàn toàn không có sự khác biệt trong việc hiểu địa danh. Nhưng điểm khác là cách lí giải nguyên do thực tiễn xuất phát của lệnh cấm. Theo ý kiến chúng tôi, lí giải như ý kiến 3 có lẽ không hợp lí về tính thời gian của tên gọi, vì thực tế này quá mới so với thời gian địa danh được lưu truyền. Còn lí giải như cách 1 của Nguyễn Văn Hầu, thì Phật Thầy Tây An chắc không đủ thẩm quyền để cấm, mà cấm chỉ nhóm Phật tử thì người không là Phật tử, liệu lệnh thầy Đoàn Minh Huyên có hiệu lực gì? Chúng tôi không xem cách giải thích này hợp lí, dù có những ý kiến cho rằng hợp lí, như ý kiến của Nguyễn Văn Hầu. Vậy, kiến giải 2 nhìn nhận, chỉ có quân lính của Nguyễn Phúc Ánh là đủ quyền lực để ra lệnh cấm ấy. Tuy nhiên, vấn đề là cần xem xét thực tiễn lịch sử, Nguyễn Phúc Ánh có thật đến đây hay không? Nói tóm lại, những cách lí giải này chỉ để tham khảo mà không có giá trị thực tiễn để giải thích.
2. 4. 1. Với lớp địa danh phần lớn có nguồn gốc Khmer hình thành từ con đường dân gian, thì mọi sự kiến giải cần có cách nhìn nhận trong tính hệ thống của 1 trong những thành tố tham gia, vì chúng lập nên cả nhóm địa danh, như nhóm địa danh có thành “Sóc, Tà, Trà, Ô, Cà…”: “Sóc Bưng, Sóc Chà, Sóc Tà Ngao, Trà Men, Trà Nghinh, Trà Sư, Tà Lọt, Ô Lâm, Ô Chích, Cà Dâm, Cà Săng…”. Với lớp địa danh này, để kiến giải thì cần phải nắm bắt nghĩa từ vựng của từ Khmer, đồng thời qua đó lí giải được con đường Việt hóa bằng hình thức ngữ âm tương ứng của nó. Đơn cử một số từ địa danh ở huyện Tịnh Biên có gốc “Trà”, hay “Tà” với nghĩa “ông” thì nếu đúng vậy, ta có thể giải thích được các nghĩa từ địa danh, như” Trà Sư, Trà Nghinh, Tà Lọt, Tà Ngao…” hay như địa danh có thành tố “Sóc”, nghĩa “xóm, ấp”. Đơn cử trường hợp tìm hiểu ngữ nghĩa của địa danh “Trà Sư”, hiện có các cách lí giải sau.
2. 4. 2. Có ý kiến cho rằng, địa danh “Trà Sư” có ý nghĩa là một ông sư (thầy chùa) tên Trà. Nếu chấp nhận nghĩa ấy thì địa danh này không thể nói có nguồn gốc từ tiếng Khmer nữa vì như vậy, làm sao có thể diễn giải tính hệ thống trong hàng loạt địa danh Khmer có thành tố “Trà” ở vùng đất Nam Bộ? Còn nếu kiến giải thành tố “Trà” (Khmer) là “ông”, thành tố “Sư” (Hán Việt) là “thầy chùa” thì sự kết hợp giữa hai thành tố khác nguồn gốc như vậy cũng không thỏa đáng.
2. 5. 1. Với lớp địa danh phần lớn có nguồn gốc Hán Việt hình thành từ con đường hành chính, như: “An Cư, An Nông, An Thạnh, An Tức, Bích Trì, Nam Chỉ, Nam Quy, Nhơn Hòa, Phú Thạnh, Thất Sơn, Thới Sơn, Tuy Biên, Tĩnh Biên, Tịnh Biên…” thì việc kiến giải nội dung của lớp địa danh này có phần dễ dàng hơn. Có điều lớp địa danh Hán Việt thường không phản ánh bất cứ điều gì thuộc thực tiễn địa phương được thể hiện qua cách gọi tên ấy. Có chăng chỉ gửi gắm ước nguyện của tổ chức trong việc chọn ngôn từ để định danh cho vùng đất, địa phương bằng tên gọi ấy. Tuy vậy, cũng có trường hợp, địa danh Hán Việt vừa phản ánh được đặc trưng thực tiễn; đồng thời, tên gọi định danh cũng vừa thể hiện được ước nguyện về vùng đất ấy, đó là khi một địa danh có xu hướng “dân gian hóa”, như sự chuyển đổi địa danh từ “Tuy Biên” thành “Tĩnh Biên”, rồi “Tịnh Biên” chẳng hạn. Theo kiến giải, các địa danh này đã có sự chuyển đổi đi từ nội dung ý nghĩa đến cả hình thức ngữ âm như sau:
2. 5. 1. 1. “Tuy Biên” có hai thành tố: “Tuy” có nghĩa “bình yên, yên ổn, bình định”(10); còn “Biên” có nghĩa “vùng ngoài biên, vùng giáp giới”. Như vậy, “Tuy Biên” vừa có ý nghĩa phản ánh thực tiễn: “một vùng đất biên giới thanh bình”, vừa thể hiện một ước nguyện cho việc đặt tên là “mong mỏi có được sự bình yên, bình định ở một vùng giáp biên thường dễ sinh biến động”.
2. 5. 1. 2. Còn “Tĩnh Biên” cũng có hai thành tố “tĩnh” với nghĩa: “yên tĩnh, bình yên”; và “biên” có ý nghĩa: “vùng biên, vùng ngoài cùng, vùng biên giới”. Như vậy, “Tĩnh Biên” có thể hiểu là một “vùng đất giáp giới thanh bình, yên tĩnh”. Như vậy, sự thay đổi tên “Tuy Biên” thành “Tĩnh Biên” là con đường chuyển đổi tên gọi dựa trên nội dung ngữ nghĩa của từ ngữ và sự chuyển đổi đi từ thành tố “Tuy” “ít phổ biến, có xu hướng bác học” sang thành tố “Tĩnh” có tính “phổ biến và có nhiều sắc thái bình dân hơn”, tạm gọi là xu hướng “dân gian hóa”.
2. 5. 1. 3.Rồi “Tĩnh Biên” lại thành “Tịnh Biên” thì “Tịnh” cũng có nghĩa tương tự như “Tĩnh”; nhưng ở trường hợp này đã có sự biến âm, mà việc biến âm này cũng là hiện tượng phổ biến, thường gặp trong phương ngữ Nam Bộ, như “cắm” thành “cặm”, “bửng” thành “bựng”, “bức bối” thành “bực bội”...(11) Do vậy, con đường chuyển đổi ngữ âm cũng đi theo xu hướng “dân gian hóa”.
(Nguồn: vccinews.vn)
2. 5. 2. Một trường hợp khác, con đường chuyển dịch từ địa danh “Thất Sơn” (Hán Việt - bác học) sang địa danh “Bảy Núi” (thuần Việt - bình dân) hoặc ngược lại cũng có nhiều điều để nói:
2. 5. 2. 1. Như chúng ta biết, vùng núi An Giang hiện nay xác định có ít nhất 37 núi(12) đã có tên gọi nằm trên địa bàn 2 huyện Tịnh Biên, Tri Tôn; nhưng tên “Thất Sơn” hoặc “Bảy Núi” vẫn không thay đổi. Vì sao như vậy? - Điều này có thể giải thích là do việc chọn lựa con số mang ý nghĩa “linh thiêng”, như trường hợp “Cửu Long, chín nhánh”; hơn nữa đây là con số có ý nghĩa tượng trưng, nên không việc gì đòi hỏi phải thay bằng con số thực tiễn có ý nghĩa chính xác.
2. 5. 2. 2. Vấn đề đáng nói ở đây là sự thâm nhập giữa hai địa danh cùng nghĩa, nhưng lại khác nhau về nguồn gốc: Hán Việt - thuần Việt, cho thấy xu hướng “dân gian hóa” mạnh trong địa danh Hán Việt “Thất Sơn”. Điều đó khiến nó trở thành một địa danh “phổ biến” trong giao tiếp đời thường của mọi người dân và ranh giới sắc thái ngữ nghĩa đối lập đã bị xóa nhòa để không còn sự phân lập giữa tính bác học hay bình dân.
3. Như đã nói, đi tìm và giải thích nguồn gốc phát sinh của những địa danh là một vấn đề “thú vị” được giới nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội quan tâm. Nhưng mong muốn một kiến giải “duy nhất đúng”, trong một số trường hợp, nhất là ở hai lớp địa danh thuần Việt và có nguồn gốc từ một ngôn ngữ bản địa, thường là của dân tộc thiểu số, như trường hợp địa danh có nguồn gốc tiếng Khmer ở Nam Bộ, là điều “không tưởng”. Vì vậy, để phục vụ công chúng tìm hiểu hiện nay có thể trình bày nhiều kiến giải để chọn lựa. Mặt khác, không chỉ những nhà nghiên cứu mới quan tâm chuyện địa danh, mà thiết nghĩ, cán bộ địa phương phụ trách lĩnh vực lịch sử, văn hóa, du lịch… cũng cần lưu tâm nhiều hơn vấn đề này. Vì hơn ai hết, họ có lợi thế là ở tại địa phương và thường xuyên được tiếp xúc với nhiều người dân, nên sự ghi nhận của họ sẽ giúp rất nhiều cho người nghiên cứu địa danh và cũng thỏa mãn được trong chừng mực mong mỏi tìm hiểu của khách du lịch khi đến tham quan địa phương họ.
Chú thích:
Tài liệu tham khảo:
1. Liêu Ngọc Ân. Tạp chí Văn hóa Lịch sử An Giang, số 86, 5/2012.
2. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, NXB. Tổng hợp Đồng Nai, 2006.
3. Nguyễn Văn Hầu, Nửa tháng trong miền Thất Sơn, NXB Trẻ, 1996.
4. Nguyễn Kim Thản, Từ điển Hán Việt, NXB. TP. HCM, 2000.
5. Huỳnh Công Tín, Văn học dân gian An Giang, Nghiên cứu KH cấp tỉnh, Tập 4, quyển 2, năm 2006.
6. Huỳnh Công Tín, Từ điển Từ ngữ Nam Bộ, NXB. CTQG-ST, 2009.
7. UBND tỉnh An Giang, Địa chí An giang, tập 2, 2007.
Các trang web:
Nguồn: tác giả