Tuy nhiên, còn tồn tại những hạn chế về xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Những kết quả đạt được “chưa đủ và để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng phát triển. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu. Khoảng cách thụ hưởng văn hóa giữa các vùng miền và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa thiếu lành mạnh, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng, tác động đến xây dựng văn hóa, con người. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật chưa tương xứng với truyền thống cách mạng và xây dựng phát triển đất nước, việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa hiệu quả chưa cao, nguy cơ mai một chưa được ngăn chặn. Thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động văn hóa còn thiếu và yếu, có nơi còn xuống cấp”[1]. Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa ở nơi này nơi khác chưa xứng tầm với xây dựng phát triển văn hóa, con người.
Nghị quyết số 33 – NQ/TW Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” trong đó có điểm mới nhấn mạnh về xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: đó là nhân cách, lối sống và nhân văn, đặc biệt là xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế mà cụ thể là về xây dựng văn hóa trong Đảng. Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng. Xây dựng văn hóa, là quan tâm xây dựng con người. Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, con người Việt Nam là chủ thể và cũng là sản phẩm của văn hóa Việt Nam, nói đến văn hóa là nói đến con người. Toàn bộ lịch sử Việt Nam là lịch sử con người đoàn kết, yêu thương, lao động và đấu tranh bền vững để dựng nước và giữ nước. NQ TW 9 (khóa XI) về văn hóa xây dựng con người cũng phù hợp và gắn kết chặt chẽ với những nội dung khác trong đường lối, chủ trương và quyết sách lớn của Đảng ta trong quá trình thực hiện NQ Đại hội lần thứ XI về xây dựng Đảng, về công tác an ninh, quốc phòng, đối ngoại, về cải cách cơ bản và toàn diện nền giáo dục, về đột phá chiến lược xây dựng nguồn nhân lực.
Vấn đề giá trị văn hóa liên quan đến CNH - HĐH đất nước bởi vì công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động dựa trên sự phát triển của công nghiệp cơ khí. Còn hiện đại hóa là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội. Như vậy, quan niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Đảng ta xác định rộng hơn những quan niệm trước đó bao hàm cả về lao động sản xuất, kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Mặt khác CNH - HĐH có tác dụng quan trọng và toàn diện về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao động, tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội. Tăng cường lực lượng vật chất kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Với vai trò vị trí là một trung tâm văn hóa của cả nước, TP.HCM đã chứa đựng biết bao giá trị văn hóa nhân văn, văn hóa lịch sử được kết tinh và thăng hoa từ sự giao lưu của nhiều nền văn hóa khác nhau trên nền tảng văn hóa mang đậm bản sắc Việt Nam. Thành phố hiện có 24 trung tâm văn hóa - thể thao quận/ huyện và 58 nhà văn hóa phường/ xã (22 đơn vị nghệ thuật, 9 rạp hát, chiếm 15,5% và 18,6% số lượng của cả nước[2]). Ngành văn hóa - du lịch, thể thao đã xây dựng quy hoạch ngành cũng như kế hoạch thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ văn hóa - xã hội theo hướng phát triển đô thị hiện đại, giàu bản sắc dân tộc. Để trở thành thành phố văn minh, các phong trào chống các tệ nạn xã hội mà nổi bật nhất là chương trình ba giảm trong thời gian qua đã được toàn dân Thành phố tham gia. Song song đó đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, đổi mới phương thức hoạt động tuyên truyền cổ động, triển lãm quảng cáo, nâng chất lượng hoạt động bảo tàng, thư viện, và các trung tâm văn hóa - thể thao, các quận/ huyện, tăng cường quản lý nhà nước, cương quyết lập lại trật tự kỷ cương các hoạt động văn hóa, tạo môi trường văn hóa xã hội lành mạnh.
Không những thế, TP.HCM tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết TW 5 (khóa VIII) đã nêu: “Tạo ra ở các đơn vị cơ sở (gia đình, làng/ bản, xã/ phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, nông trường, lâm trường, trường học, đơn vị bộ đội) xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân”, do đó Thành phố đã tập trung đẩy mạnh xã hội hóa việc tổ chức hoạt động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở như hoạt động thông tin, tuyên truyền cổ động; hoạt động câu lạc bộ; hoạt động thư viện, đọc sách báo; tiếp cận các thông tin mới có chọn lọc qua phương tiện internet; hoạt động giáo dục truyền thông; hoạt động văn nghệ quần chúng và hoạt động xây dựng nếp sống mới gắn chặt với việc thực hiện phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở địa bàn dân cư.
Đồng thời còn có hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí và hoạt động xã hội từ thiện. Đặc biệt, hàng năm vào các dịp lễ, tết TP.HCM tổ chức đường hoa Nguyễn Huệ và các hoạt động lễ hội nhằm giới thiệu cảnh quan du lịch của Thành phố. “Đờn ca tài tử Nam Bộ” gần đây đã được Unesco công nhận là nét văn hóa mang đậm sắc thái phương Nam đã đi vào lòng người TP.HCM nói riêng và vùng đất phương Nam nói chung. CNH - HĐH và hội nhập quốc tế gắn với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền là những quá trình mới mẻ lớn lao có tính cách mạng đối với xã hội Việt Nam.
Thực tế trong gần ba mươi năm đổi mới (1986-2014), nhiều yếu tố đã tác động nhanh chóng, to lớn, sâu sắc và toàn diện đến mọi mặt đời sống văn hóa, tinh thần của người dân TP.HCM nói riêng, đất nước nói chung, với cả những mặt tích cực và tiêu cực. Đối với con người, tác động đó là rất đậm nét về sự phát triển đa dạng, phong phú trong văn hóa cũng như tính năng động, tích cực xã hội trong con người Việt Nam.
Tuy nhiên, những tác động tiêu cực cũng đã ảnh hưởng rất lớn, đặc biệt là làm phân tán, lệch lạc các chuẩn mực giá trị. Trong khi xã hội tôn trọng cá nhân, lợi ích cá nhân, khuyến khích và tạo điều kiện để làm giàu chính đáng thì những biến thái tiêu cực của cơ chế thị trường đã làm méo mó những giá trị đó, làm cho một bộ phận con người đề cao lợi ích cá nhân, lối sống vị kỷ. Trong khi xã hội hướng tới việc xây dựng nhà nước pháp quyền, lối sống tự giác tuân thủ pháp luật thì một bộ phận tìm cách len lỏi, lách qua các chính sách pháp luật làm giàu bằng mọi cách và tiến thân. Nguy hại hơn, những lệch lạc trong nhận thức, tư tưởng, lối sống vị kỷ, cá nhân đó đã lây lan trong một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng viên gây nên “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng”. Tình trạng này đã gây nên những tác động xấu làm nảy sinh, dung dưỡng sự hoài nghi “tự diễn biến”, sự vô cảm, thiếu trách nhiệm trong tư tưởng và hành động của con người, của một số cơ quan, đơn vị và xã hội, làm căn bệnh tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm có đất tồn tại, hoành hành. Con người vụ lợi, bất chính, bất minh cũng là một nguyên nhân làm cho việc thực hiện công khai, minh bạch trong các hoạt động kinh tế - xã hội trở lên khó khăn, làm cho công tác tự phê bình và phê bình giảm hiệu lực, văn hóa từ chức khó thực hiện.
Kinh tế phát triển, sự phân hóa giàu - nghèo kèm theo là đương nhiên nhưng sự giàu lên không chính đáng, sự nghèo gắn với thiệt thòi, bất công lại tác động xấu và hại đến niềm tin, lẽ sống của con người. Nước ta từ xã hội sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, từ cơ chế quan liêu bao cấp, mệnh lệnh tập trung, ứng xử theo thủ tục truyền thống làng, xóm “phép vua thua lệ làng”, bước vào thời kỳ CNH-HĐH và kinh tế thị trường có định hướng XHCN, con người Việt Nam sống và làm việc theo pháp luật, do đó con người Việt Nam thích nghi để trở thành người làm chủ thực sự với quá trình biến đổi mạnh mẽ này.
Trong quá trình hội nhập quốc tế cũng vậy, lẽ đương nhiên con người từ đất nước nghèo, lạc hậu đến với các nước đã CNH-HĐH từ lâu không khỏi có tâm lý tự ti. Nếu không có nhận thức đúng sẽ trở nên thụ động, hoài nghi đối với chính mình và đối với đất nước, quê hương. Công nghiệp hóa, đô thị hóa khiến tốc độ tập trung dân cư diễn ra nhanh hơn mọi quy hoạch xây dựng và tổ chức cuộc sống. Những khó khăn phức tạp trong mọi hoạt động xã hội từ tác hại môi trường thiên nhiên đến mua bán, kinh doanh, từ giao thông vận tải, giáo dục, y tế, an ninh, an toàn sản xuất, tiêu dùng, sinh hoạt đến các hoạt động văn hóa xã hội.
Mặt khác khi bị bứng khỏi môi trường văn hóa truyền thống gắn kết gia đình, họ hàng, làng nước, họ trở thành những cá thể bơ vơ không có chỗ dựa và cũng không có sự ràng buộc cả về tình cảm, lề luật, quy ước nên dễ mất phương hướng trong hành xử. Cụ thể là những người nhập cư, tạm cư nơi đô thị vẫn còn giữ các mối quan hệ với làng xóm quê hương nên sự thay đổi cơ cấu dân cư, biến đổi môi trường sống không trở thành những biến động cực đoan. Điều này có sự hỗ trợ của những chính sách, sự quan tâm của Đảng, nhà nước, xã hội.
Trên đây là những hạn chế của kinh tế thị trường, thấy rõ những bất cập trong con người thực hiện CNH-HĐH và hội nhập quốc tế, đòi hỏi nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người phải luôn được quan tâm. Hiện nay, nước ta đang thực hiện tiến trình CNH-HĐH và hội nhập quốc tế xu hướng toàn cầu hóa.
Sự giao lưu mở cửa, hội nhập đã đem lại cho gia đình Việt Nam nhiều cơ hội. Gia đình Việt Nam có nhiều điều kiện phát triển kinh tế, giao lưu hội nhập với các nền kinh tế tiên tiến, văn minh của các nước. Song bên cạnh những mặt tích cực đó, mặt trái của kinh tế thị trường tác động đến đời sống văn hóa của gia đình Việt Nam, làm cho gia đình Việt Nam đang đứng trước thử thách, sóng gió. Cuộc sống xã hội hiện đại, với sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế đã tác động đến đời sống gia đình Việt Nam nói chung, gia đình ở TP.HCM nói riêng. Ở một góc độ nào đó đã phá vỡ nề nếp gia phong đạo đức của truyền thống gia đình; tình trạng ly hôn, ly thân, sống chung như vợ chồng không đăng ký kết hôn, quan hệ tình dục trước hôn nhân và nạo phá thai ngày một tăng; xu hướng kết hôn với người nước ngoài ngày một nhiều và sau kết hôn định cư ở nước ngoài cũng gia tăng; các giá trị văn hóa gia đình truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam đang có biểu hiện xuống cấp, mai một, nhiều tệ nạn xã hội như mại dâm, ma túy, HIV/AIDS… đã và đang xâm nhập vào các gia đình; mâu thuẫn xung đột giữa các thế hệ về phép ứng xử, lối sống và vấn đề chăm sóc người cao tuổi đang đặt ra những thách thức mới. Tình trạng bạo lực gia đình có chiều hướng gia tăng mạnh mẽ đến mức báo động.
NQ TW 9 khóa XI có nêu trong “mục tiêu chung” là “xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Trong “mục tiêu cụ thể”, Nghị quyết cũng nêu rõ: “Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước”. Nghị quyết TW 9 (khóa XI) cũng khẳng định quan điểm “trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”.
Để thực hiện các mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể, Nghị quyết TW 9 (khóa XI) đã đề ra 6 nhiệm vụ và 4 nhóm giải pháp. Tất cả các nhiệm vụ, giải pháp đều quan hệ mật thiết, cần thực hiện đồng bộ, xác định chiến lược trọng tâm là con người, xây dựng và phát huy nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Đương nhiên, nhiệm vụ nặng nề không chỉ đặt vào các ngành văn hóa và giáo dục đào tạo mà là của mọi cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban lãnh đạo và tất cả guồng máy xã hội.
Giải pháp đầu tiên và có tác động xuyên suốt chính là “tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa”. Không thể tiến hành CNH-HĐH, và không có phát triển bền vững đất nước nếu không có con người - nguồn nhân lực chất lượng cao. Đó là con người có lòng yêu nước, nhân cách, lối sống cao đẹp, có tri thức, kỹ năng và trách nhiệm để làm chủ mọi quá trình đổi mới trong mọi ngành nghề, công việc, hoạt động xã hội, từ xây dựng nông thôn mới, làm chủ biển đảo, bầu trời đến khoa học công nghệ, trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Đó là con người vừa giữ gìn, phát huy những giá trị truyền thống vừa sáng tạo những giá trị mới cao đẹp. Đó là con người nêu cao tinh thần “Mình vì mọi người, mọi người vì mình”, kết hợp hài hòa giữa lợi ích riêng và chung.
Từ đánh giá sự biến đổi của giá trị văn hóa trên địa bàn TP.HCM trong thời gian qua nói trên, chúng tôi xin đề xuất các nội dung cụ thể liên quan đến phát huy giá trị văn hóa truyền thống và xây dựng các nội dung, giải pháp thực hiện giá trị văn hóa TP.HCM và Việt Nam trong thời gian tới như sau:
Một là, để giá trị văn hóa đi vào đời sống của nhân dân, trước hết trong Đảng, và trong các cơ quan, đơn vị nhà nước (trên địa bàn TP.HCM nói riêng, cả nước nói chung) cần thấm sâu và nhận thức hành động của các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, và tổ chức đoàn thể , xã hội cũng như cán bộ Đảng viên, cán bộ công chức, viên chức, công nhân viên, người lao động, và người dân hiểu căn cơ hơn, đầy đủ hơn thì công tác tuyên truyền, phổ biến, học tập phải nghiêm túc, kịp thời (không làm hình thức, chiếu lệ); đặc biệt, các nội dung, các nhiệm vụ, và giải pháp thực hiện NQ số 33 của Hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ chín (khóa XI) phải được triển khai tiến hành đồng bộ và quyết liệt trong tổ chức thực hiện ở các cấp.
Hai là, TP.HCM nói riêng, cả nước nói chung cần xây dựng các chỉ tiêu, chuẩn mực văn hóa, cụ thể nhất là đặc trưng văn hóa riêng của từng vùng, miền để duy trì, bảo tồn và làm phong phú, sinh động, đồng thời là sự giao thoa và chắt lọc những tinh hoa văn hóa của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Ví dụ: các bộ, ngành và tỉnh/ thành địa phương, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và các quận/ huyện, phường/ xã đề ra nhiều giải pháp cụ thể và thời gian thực hiện, trước mắt phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu chủ yếu của NQ 33 Hội nghị lần thứ chín BCH TW Đảng (khóa XI) đã đề ra.
Ba là, phải chú trọng công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ làm văn hóa xứng tầm với vị trí, vai trò của TP.HCM nói riêng, của đất nước nói chung và của các tỉnh, thành địa phương khác gắn kết với nhau, phối hợp trong tổ chức thực hiện nhằm xây dựng và phát huy các giá trị Việt Nam trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhất là giá trị về văn hóa, tinh thần của con người Việt Nam.
Bốn là, đầu tư cơ sở vật chất để đảm bảo về phương tiện, điều kiện cho hoạt động văn hóa ở các cơ sở như xây dựng các thiết chế văn hóa (nhà văn hóa phường, xã, và nâng cấp cũng như xây dựng mới các trung tâm văn hóa - thể thao quận/ huyện, tỉnh/ thành); quan tâm đầu tư các thiết chế văn hóa, chăm chút chất lượng các nội dung hoạt động, sinh hoạt văn hóa, thể thao để thu hút được đông đảo công nhân, lao động ở các khu chế xuất, khu công nghiệp và nhân dân ở các địa phương và trên cả nước tham gia cũng như họ được thụ hưởng nhiều hơn về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần, góp phần tái lao động sản xuất.
Năm là, gắn nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (xem đây là nhiệm vụ, giải pháp) với việc xây dựng môi trường văn hóa trong Đảng, trong các đơn vị, cơ quan nhà nước, đoàn thể và nhân dân. Mà trước hết mỗi cán bộ Đảng viên phải gương mẫu trong rèn luyện đạo đức, lối sống, là người tiêu biểu về đạo đức và thực hành đạo đức cách mạng để trở thành chỗ dựa và niềm tin cậy của nhân dân.
Sáu là, tiếp tục đầu tư cơ chế chính sách để phát huy trí tuệ các nhà khoa học, văn nghệ sĩ tham gia nghiên cứu và sáng tác các tác phẩm văn hóa, văn nghệ, nghệ thuật, đồng thời nâng chất lượng hoạt động của sự nghiệp văn hóa để đi vào cuộc sống, đáp ứng được nhu cầu của cán bộ, CNVC, người lao động và nhân dân TP.HCM nói riêng, cả nước nói chung.
Bảy là, nâng cao chất lượng dạy đạo đức, giáo dục công dân và các lao động rèn luyện nhân cách con người cho học sinh, sinh viên khi còn ngồi trên ghế nhà trường, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm văn hóa nơi công sở và ở địa bàn dân cư, thường xuyên tổ chức nhân rộng các điển hình tập thể, cá nhân có nhiều đóng góp hiệu quả cho công tác xây dựng văn hóa, con người TP.HCM nói riêng, con người Việt Nam nói chung.
Tám là, cần xây dựng quy chế và hướng dẫn cụ thể về văn hóa hội nhập quốc tế cho các địa phương nhất là các địa phương có nhiều thế mạnh về hoạt động du lịch như TP.HCM, đồng thời phát huy được tiềm năng của hoạt động du lịch cũng như các kinh nghiệm về dịch vụ du lịch trong nước và ngoài nước. Cần thu hút được đông đảo lượng khách nước ngoài đến tham quan, giao lưu, tìm hiểu về di sản văn hóa, du lịch sinh thái, truyền thống, tâm linh... thông qua đó để họ hiểu được và quảng bá hình ảnh, giới thiệu cho bạn bè quốc tế biết về đất nước, giá trị văn hóa, lịch sử và con người TP.HCM và con người Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng khóa VIII (yết số 03-NQ/TW ngày 16-7-1998) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng khóa XI (số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
- Nhiều tác giả 2000: Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh thế kỷ XX: Những vấn đề lịch sử - văn hoá. – TP.HCM, NXB Trẻ.
- Nhiều tác giả 2005: Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh 60 năm tiếp bước truyền thống CMT8 (1945-2005). - NXB Tổng hợp TP.HCM.
[1] Tài liệu nghiên cứu nghị quyết Hội nghị 9 BCH TW Đảng khóa XI, tr. 34-47.
[2] Số liệu này của Sở Văn hóa Thông tin Thành phố trước năm 2000, nhưng hiện nay có một số nhà văn hóa phường/ xã hoạt động không hiệu quả, thậm chí cho thuê mặt bằng để hoạt động các dịch vụ khác.
Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”