Giá trị và hệ giá trị từ góc nhìn văn hóa học
Giá trị, theo nghĩa chung nhất, là những gì được chúng ta coi là có giá trị, có ý nghĩa trong so sánh với những cái khác, hiện tượng khác [Chris Barker 2004: 206], hoặc đó là quan niệm về những gì có “ảnh hưởng tới việc chọn các phương thức, phương tiện hoặc mục tiêu của hành động” [G.Endrrweit & G.Trommsdorff 2002: 156].
Tuy nhiên, trên quan điểm triết học về giá trị, ít nhất có hai bình diện sau phải được xem xét: một vật “có giá trị” hay “mang giá trị” thuộc loại tính chất hay thuộc tính nào, và, có giá trị có phải là một vấn đề khách quan hay chủ quan, giá trị có nội tại trong sự vật hay là một vấn đề thuộc cảm nhận của chúng ta về vật đó [Ted Honderich 2001: 1132]. Nhiều nhà nghiên cứu luôn nhấn mạnh đến hai vấn đề cốt lõi liên quan đến giá trị, đó là giá trị của đối tượng nghiên cứu và quan điểm về giá trị của người nghiên cứu.
Văn hóa học không phủ nhận cách hiểu chung nhất về giá trị và những vấn đề giá trị, hệ giá trị từ góc độ nhận thức luận, nhưng đặc biệt chú ý đến quan niệm giá trị, hệ giá trị gắn với đặc trưng của văn hóa. Văn hóa thống nhất trong đa dạng, nói một cách khác, đa dạng là bản chất và là đặc trưng của văn hóa. Mỗi nền văn hóa đóng góp vào sự đa dạng của văn hóa nhân loại bằng những nét riêng của mình. Trong tương quan giữa các nền văn hóa nổi bật lên sự khác biệt chứ không phải hơn kém về giá trị. Tuy vậy, khi nói đến một nền văn hóa không thể không nói đến hệ giá trị - những yếu tố cốt lõi tạo nên sự liên kết cộng đồng, làm nền tảng cho tổ chức và quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi. Dân tộc nào cũng có những hệ giá trị gồm các giá trị khác nhau, mang tính chuẩn mực hình thành trong quá trình phát triển lịch sử của dân tộc đó. Chính vì vậy, nghiên cứu bản sắc văn hóa của một dân tộc, hầu hết các nhà nghiên cứu đều quan tâm đến hệ giá trị cốt lõi như là nền tảng của việc hình thành bản sắc văn hóa của dân tộc đó. Chẳng hạn, Trần Ngọc Thêm xem bản sắc dân tộc chính là “những giá trị đặc sắc cơ bản được lưu truyền trong lịch sử, là cái tinh hoa bền vững của nó” [Trần Ngọc Thêm 2001: 293]. Khẳng định của Trần Ngọc Thêm xuất phát từ quan điểm tính hệ thống và từ quan niệm về đặc trưng tính giá trị của hệ thống văn hóa nên không rơi vào giá trị luận, ngược lại, đây là một trong những quan niệm và hướng tiếp cận đúng đắn về văn hóa và hệ giá trị trong hệ thống văn hóa.
Tiếp cận hệ giá trị của một nền văn hóa, tuy vậy, không thể tiếp cận theo hướng tĩnh vì không có gì bất biến, ngay cả với những giá trị đặc sắc cơ bản và những tinh hoa bền vững. Văn hóa có tính lịch sử và điều này thể hiện rõ ở đặc trưng tính giá trị. Giá trị và hệ giá trị của một nền văn hóa mang đậm tính lịch sử và có quá trình vận động phát triển theo quy luật đặc thù của nó. Chính vì vậy, tiếp cận từ góc nhìn lịch sử có ý nghĩa thực tiễn trong việc khám phá quá trình vận động của hệ giá trị và cả những biểu hiện có tính bản sắc của một nền văn hóa gắn liền với hệ giá trị. Theo Trần Ngọc Thêm, tiếp cận giá trị và hệ giá trị của một nền văn hóa theo thời gian sẽ giúp “phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời. Trong các giá trị nhất thời lại có thể phân biệt giá trị đã lỗi thời, giá trị hiện thời và giá trị đang hình thành” [Trần Ngọc Thêm 2001: 22]. Hướng tiếp cận này, như vậy, cũng sẽ giúp nhận diện được những điểm mốc, những chặng quan trọng có ý nghĩa lớn trong việc góp phần chuyển đổi cơ bản về hệ giá trị trong quá trình phát triển của một nền văn hóa. Hiện nay trong bối cảnh toàn cầu hóa, các nền văn hóa, nhất là các nền văn hóa đang trong quá trình chuyển đổi (công nghiệp hóa, hiện đại hóa), đều gặp phải các va chạm, các thử thách về giá trị trong mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Vì vậy, rất cần có cách tiếp cận giá trị từ góc nhìn lịch sử để góp phần giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong quá trình phát triển của một nền văn hóa.
Tiếp cận hệ giá trị từ góc nhìn văn hóa học cũng không loại trừ việc tiếp cận một vùng văn hóa với tư cách là một tiểu văn hóa trong một nền văn hóa dân tộc. Thực sự thì mỗi nền văn hóa cũng là một thể thống nhất trong đa dạng. Mỗi vùng văn hóa cũng có hệ giá trị của nó. Có điều hệ giá trị này vừa hàm chứa những giá trị cốt lõi của hệ giá trị văn hóa dân tộc, vừa có những đặc sắc riêng. Tiếp cận hệ giá trị của một nền văn hóa là cơ sở để hiểu hệ giá trị mang nhiều dấu ấn đặc trưng của một vùng văn hóa, ngược lại, thông qua tiếp cận những giá trị cốt lõi của một vùng văn hóa cũng sẽ góp phần không nhỏ trong việc tìm hiểu hệ giá trị của một nền văn hóa dân tộc cũng như những đóng góp của vùng văn hóa đó vào văn hóa dân tộc nhìn từ phương diện giá trị.
Hệ giá trị văn hóa Nam Bộ trong hệ giá trị văn hóa Việt Nam từ góc nhìn lịch sử
Để trở thành một vùng văn hóa với tư cách là một bộ phận của nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng, vùng văn hóa Nam Bộ phải trải qua quá trình lịch sử nhất định mới thật sự định hình và tạo dựng nên những sắc thái riêng trên nền tảng chung của hệ giá trị văn hóa dân tộc.
Quá trình lịch sử văn hóa Nam Bộ có thể được đánh dấu với mốc năm 1623 khi trên tinh thần hòa hiếu giữa hai dân tộc, vua Chân Lạp cho phép chúa Nguyễn đưa dân Việt đến làm ăn buôn bán và được đặt một sở thu thuế ở Prey Kôr (Sài Gòn – TP.HCM hiện nay). Thực tế vùng đất hiện nay được gọi là Nam Bộ bấy giờ chỉ là một vùng hoang dại, đất đai trũng, úng, sình lầy, sông rạch chằng chịt, từ các cửa biển Cần Giờ, Soài Rạp, Cửa Tiểu, Cửa Đại trở vào, toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm [Phan Khoang 2001: 354]. Khi chúa Nguyễn được quyền tiếp quản cả một vùng rộng lớn (khoảng từ năm 1628 trên cơ sở bang giao với Chân Lạp), người Việt mới dần di dân ngày một nhiều vào khẩn hoang, làm ăn sinh sống. Trong nửa sau thế kỷ XVII, chúa Nguyễn tiếp nhận một đoàn người Hoa đến quy thuận, cho họ đến góp phần khai phá và định cư ở Biên Hoà - Đồng Nai và đến cuối thế kỷ XVII Nguyễn Hữu Cảnh còn phải mộ dân từ Quảng Bình vào chia đặt doanh, huyện, lập hộ tịch và trong năm 1698, theo lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, ông vào thành lập phủ Gia Định, đánh dấu cột mốc quan trọng của vùng đất mới. Nam Bộ trở thành “vùng đất xuất hiện sau cùng trên bản đồ văn hóa Việt Nam” [Cao Tự Thanh 1996: 13].
Như vậy, cũng phải ngót gần một thế kỷ Nam Bộ mới bước đầu được định hình trong thời gian và không gian với tư cách là một vùng văn hóa. Xét về lịch sử, để một vùng đất trở thành một vùng văn hóa, một thế kỷ là thời gian không dài. Sở dĩ có được điều này, vì xét từ chủ thể, người Việt khi đến vùng đất mới đã mang theo hành trang của mình vốn văn hóa đúc kết hàng ngàn năm của dân tộc Việt. Đây chính là nền tảng của hệ giá trị văn hóa Nam Bộ. Khi nghiên cứu về tính cách văn hóa Nam Bộ, Trần Ngọc Thêm cũng đã xác định tính cách văn hóa Nam Bộ là sản phẩm tổng hợp của ba yếu tố chính, trong đó truyền thống văn hóa dân tộc Việt được ông xếp ở hàng đầu tiên, hai yếu tố kia là tiếp biến với văn hóa khu vực và phương Tây và bối cảnh tự nhiên Nam Bộ [Trần Ngọc Thêm 2006: 141]. Điều dễ thấy là hai yếu tố sau dựa trên cơ sở của yếu tố đầu tiên với tư cách là hệ giá trị cốt lõi. Mặt khác, nhìn từ chủ thể, điều cũng dễ thấy là lưu dân Việt vào Nam hầu hết là thuộc tầng lớp dưới, những giá trị họ mang theo chắc chắn không phải là cả hệ giá trị được vận hành gắn với thiết chế văn hóa xã hội vốn có từ lâu đời như ở các vùng “đất cũ” thuộc Bắc Bộ, Trung Bộ. Những giá trị họ mang theo không nhiều tính chất quan phương mà đậm nét truyền thống dân chủ của văn hóa nông thôn. Những giá trị này trải qua quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội có tính đặc thù của Nam Bộ đã dần tạo nên những giá trị mang đậm sắc thái Nam Bộ mà giới nghiên cứu thường nói đến khi đặt trong mối quan hệ với văn hóa truyền thống như tính thoáng mở, năng động, sáng tạo, trọng nghĩa, bao dung…
Nhìn từ phương diện lịch sử, có thể thấy Nam Bộ nổi bật lên vị thế tiên phong trong nhiều lĩnh vực. Trước hết, Nam Bộ là vùng đất đi đầu trong việc chống thực dân phương Tây xâm lược và bị đặt trong thế tiếp xúc văn hóa, văn minh mang tính cưỡng bức một cách điển hình. Chính trong thử thách, người dân Nam Bộ đã thể hiện rõ hơn đâu hết truyền thống yêu nước chống ngoại xâm - một biểu hiện cốt lõi của hệ giá trị văn hóa dân tộc. Nhưng điều đáng nói chính là ở cách thể hiện lòng yêu nước đậm tính cách văn hóa Nam Bộ. Đấy là tinh thần trượng nghĩa của người dân Nam Bộ, của những dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ mà Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện sâu sắc trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. “Nghĩa” ở đây không phải là anh hùng hiệp nghĩa theo lối thường hiểu mà là hy sinh vì “nghĩa lớn” xuất phát từ lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc.
Người dân Nam Bộ, trong quá trình phát triển của mình, không bị ràng buộc nhiều bởi ý thức trung quân nên trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã quay lưng lại với triều đình, “chẳng nghe thiên tử chiếu”, và chính họ chứ không ai khác đã là động lực mạnh mẽ thúc đẩy những người ít nhiều vướng bận với triều đình cũng phải “theo bụng dân để chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại” (Văn tế Trương Định - Nguyễn Đình Chiểu). Sự va chạm về giá trị càng biểu hiện rõ hơn đâu hết chiều sâu của hệ giá trị văn hóa Việt Nam mang đậm sắc thái Nam Bộ. Nguyễn Đình Chiểu đã thay mặt nhân dân Nam Bộ thể hiện rõ sự lựa chọn quyết liệt để bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống trước sự thâm nhập của các yếu tố văn hóa, văn minh ngoại lai. Khái niệm “đạo nhà” của Nguyễn Đình Chiểu là một sự đúc kết nhận thức sâu sắc của người dân Nam Bộ về phẩm giá và khí phách. “Đạo nhà” ở đây được đặt trong thế đối lập với “đạo người”, với “ngoại đạo” và cốt lõi của nó chính là truyền thống, là đạo lý dân tộc mà người dân Nam Bộ thà hy sinh chứ không chịu mất. “Đạo nhà”, đạo thờ cúng ông bà tổ tiên trong bối cảnh này đã trở thành biểu trưng cho truyền thống văn hóa, cho cốt lõi của bản sắc dân tộc. “Đạo nhà” ở đây cũng là đạo lý của lòng yêu nước. Điều đáng lưu ý là Nam Bộ là vùng đất mới, ít chịu sự ràng buộc của khuôn khổ đạo lý truyền thống nhưng hạt nhân của hệ giá trị văn hóa Việt vẫn hết sức bền vững, chỉ khác là nó được phát biểu, được bộc lộ mang đậm sắc thái Nam Bộ, vừa dân dã, vừa sâu sắc. “Đạo nhà” là một đóng góp khá đặc biệt trong việc đúc kết, khái niệm hóa một nội dung cốt lõi của hệ giá trị văn hóa Việt.
Nhưng liệu đấy có phải là biểu hiện của sự khép kín, bảo thủ? Theo chúng tôi, đó là vấn đề không nhất thiết phải đặt ra vì bối cảnh của Nam Bộ cuối thế kỷ XIX là bối cảnh của sự lựa chọn. Trong sự lựa chọn đó, đạo lý dân tộc, phẩm giá dân tộc, vốn là cái tinh hoa bền vững trong hệ giá trị văn hóa dân tộc, nay càng được trui rèn sắc nhọn hơn trong hoàn cảnh lịch sử Nam Bộ cuối thế kỷ XIX. Trên nền tảng giá trị cốt lõi đó, Nam Bộ vẫn thể hiện được rõ nét là vùng đất mở, là sự bao dung và năng động trong tiếp nhận cái mới. Nam Bộ vẫn là vùng đất đầu tiên ở Việt Nam tiếp nhận nhiều yếu tố mới mẻ của văn hóa, văn minh phương Tây vận dụng vào thực tiễn văn hóa Nam Bộ nói riêng, văn hóa Việt Nam nói chung. Sự phát triển đô thị thương nghiệp, sự xã hội hóa chữ quốc ngữ Latin, sự xuất hiện báo chí, sự thử nghiệm của nhiều hình thức sáng tạo nghệ thuật theo hướng học tập có chọn lọc mô hình phương Tây từ những thập niên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cho thấy rõ điều đó.
Nhìn từ lịch sử, quả thật, Nam Bộ là vùng đất gần như không có sự bình yên. Chưa đầy một tháng sau Cách mạng tháng Tám, Nam Bộ đã phải bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp với sức mạnh của lòng yêu nước, ý chí bảo vệ Tổ quốc của những công dân vừa mới thoát khỏi xích xiềng nô lệ. Miền Nam đã “đi trước” cả nước, rồi tiếp đó với cuộc kháng chiến chống Mỹ và “trở về” sau cùng vào tháng 4 năm 1975. Nam Bộ trở thành biểu tượng, thành thành đồng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thực sự đó chính là biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước được đúc kết trong truyền thống văn hóa dân tộc và được thể hiện cụ thể qua vùng văn hóa Nam Bộ. Trong bối cảnh chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, Nam Bộ vẫn thể hiện truyền thống mở, năng động của mình. Sài Gòn, trung tâm của vùng văn hóa Nam Bộ, từ khá sớm đã trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa của cả miền rồi cả nước theo mô hình xã hội hiện đại. Vốn là vùng đất “Nam kỳ trực trị” và sau đó lại trải qua những giai đoạn có sự thâm nhập mạnh mẽ của văn hóa, văn minh phương Tây thời kỳ trước khi đất nước được thống nhất, nhưng Nam Bộ vẫn là một vùng văn hóa mang đậm sắc thái văn hóa dân tộc, vừa truyền thống, vừa hiện đại và luôn đi đầu trong quá trình hiện đại hóa của đất nước, tiêu biểu nhất là tính dám thử nghiệm, dám đi tiên phong trong hầu hết các lĩnh vực hoạt động, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và tổ chức quản lý xã hội.
Kết luận
Hệ giá trị văn hóa Nam Bộ vừa có nền tảng của truyền thống văn hóa dân tộc, vừa có những giá trị cốt lõi riêng hình thành nên phong cách văn hóa Nam Bộ. Tính thoáng mở của một vùng đất mới là cơ sở của việc hình thành nên tính năng động, nhạy bén, dám nghĩ dám làm của người dân Nam Bộ, và do hoàn cảnh lịch sử có tính đặc thù của mình, tính thoáng mở đó là cơ sở cho việc tiếp nhận và tiếp biến thành công nhiều giá trị văn hóa, văn minh hiện đại của thế giới, tiêu biểu là các mô hình của các nước phương Tây. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, ở Việt Nam, Nam Bộ là vùng văn hóa có điều kiện hơn cả trong việc hội nhập văn hóa và, do vậy, lại tiếp tục đóng vai trò tiên phong trong bối cảnh mới. Đó cũng là đóng góp thiết thực của vùng văn hóa Nam Bộ trong sự phát triển chung của văn hóa dân tộc.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
1. Chris Barker 2004: The Sage Dictionary of cutural Studies. - London: SAGE Publication.
2. G.Endrrweit & G.Trommsdorff 2002: Từ điển xã hội học. - H.: NXB Thế Giới.
3. Ted Honderich (cb) 2002: Hành trình cùng triết học. - H.: NXB Văn hóa Thông tin.
4. Hồ Sĩ Quý 2006: Về giá trị và giá trị Châu Á học. - H.: NXB Chính trị Quốc gia.
5. Trần Ngọc Thêm 2001: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. -NXB TP. HCM.
6. Trần Ngọc Thêm 2001: Bản sắc văn hóa Việt Nam trước ngưỡng cửa thiên niên kỷ mới. – In trong: “Văn hóa Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận” (Lê Ngọc Trà tập hợp, giới thiệu). – H.: NXB Giáo dục; tr. 292-301.
7. Trần Ngọc Thêm 2006: Tính cách văn hóa Nam Bộ. - In trong: “Đồng bằng sông Cửu Long: thực trạng và giải pháp để trở thành vùng trọng điểm phát triển kinh tế giai đoạn 2006-2010”. - NXB ĐHQG Tp.HCM; tr. 141-148.
8. Trần Văn Giàu (cb) 1987: Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh. - NXB TP. HCM.
9. Cao Tự Thanh 1996: Nho giáo ở Gia Định. - NXB TP. HCM.
10. Nhiều tác giả 1983: Về giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam, tập 1&2. - H.: NXB Thông tin lý luận.
11. Phan Khoang 2001: Việt sử xứ Đàng Trong. - H.: NXB Văn học.
12. Huỳnh Khái Vinh (cb) 1995: Chấn hưng vùng và các tiểu vùng văn hóa ở nước ta. - H.: NXB CTQG.
Nguồn: Bài viết tham gia hội thảo “Hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Kỷ yếu hội thảo in thành sách “Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện tại”