Cái tên “thành phố Sài Gòn” (ville de Saigon) chỉ vùng đất hiện nay xuất hiện lần đầu trong báo cáo chính thức của “Charner gởi Tổng trưởng Bộ Hải quân và thuộc địa Pháp ngày 27-2-1861”, vài ngày sau khi hạ đồn Chí Hòa. Rồi “Charner ban hành nghị định ngày 11-4-1861 quy định ranh giới thành phố Sài Gòn nằm trong khu vực giới hạn bởi một bên là hai con rạch Thị Nghè (Arroyo de l’Avalanche) và Bến Nghé (Arroyo Chinois) và một bên là sông Sài Gòn cùng đường nối liền chùa Cây Mai với những phòng tuyến cũ của đồn Chí Hòa” (Thành cổ Sài Gòn - Lê Nguyễn). Như vậy, Sài Gòn ban đầu nằm gọn trong phạm vi từ bờ rạch Bến Nghé (đường Võ Văn Kiệt) đến đường Nguyễn Trãi và từ bờ sông Thị Nghè (Sở thú) đến Cầu Ông Lãnh. Đến “ngày 28-11-1861, khi Đô đốc Bonard quyết định vùng chiếm đóng lấy tên chính thức là Etablissement de Saigon (vùng chiếm cứ Sài Gòn), đồng thời bắt đầu đặt tên chính thức theo Pháp cho các vùng dân cư, địa lý thuộc khu vực Pháp chiếm đóng. Bến Nghé lấy tên là Sài Gòn, sông Tân Bình được gọi là sông Sài Gòn, rạch Thị Nghè: Arroyo de l’Avalanche, kinh Tàu Hủ: Arroyo Chinois…” (Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, 300 năm hình thành và phát triển - Đoàn Thanh Hương, Hồ Hữu Nhựt). Và tới ngày 30-4-1862 thì “thành phố Sài Gòn” lập lại trong báo cáo Dự án Sài Gòn thành phố 500 ngàn dân của đại tá công binh Coffyn. Đây là dự án thành lập một thành phố Sài Gòn “nằm trong ranh giới các đường nước” được Charner chỉ đạo và Bonard tiếp tục thực hiện bị cho là không tưởng vì khi ấy toàn Nam kỳ chỉ có 1,5 triệu dân. Theo kế hoạch này, Sài Gòn sẽ là thủ đô của Nam kỳ được bao bọc chung quanh là rạch Bến Nghé, sông Sài Gòn, rạch Thị Nghè và một con kinh đào vành đai gọi là kinh Bao Ngạn nối rạch Thị Nghè với rạch Lò Gốm. Bến Nghé vĩnh viễn biến mất và Sài Gòn được khai sanh.
Lâu nay, các nhà nghiên cứu về Sài Gòn đều thống nhất rằng “con kinh Bao Ngạn đang thực hiện giữa chừng thì bị ngưng trệ vì bị nghĩa quân quấy phá, dân phu nổi loạn và có thể vì cả thiếu kinh phí”. Philippe Devillers cũng ghi nhận “đô đốc Bonard đã cho tiến hành những công trình lớn, nhất là việc tạo một con sông đào rộng làm vành đai bao quanh Sài Gòn. Nhưng những người nổi dậy đã cho loan truyền trong số 40.000 công nhân làm việc tại đó những khẩu hiệu chống đối. Có nhiều dấu hiệu cho thấy sẽ có một cuộc nổi loạn…” (Người Pháp và Annam bạn hay thù? - Philippe Devillers).
Kết luận này nghe có vẻ hợp lý vì khi dự án được đệ trình thì Pháp mới hạ đại đồn Chí Hòa hơn một năm, chiến trường vẫn còn tanh mùi máu và các tỉnh miền Tây, miền Đông vẫn còn rất nhiều cuộc chiến đấu của nghĩa quân. Một mặt, đây là dự án “dám nghĩ dám làm” của thực dân. Mặt khác, nó còn thể hiện rõ mục tiêu “chiếm cứ lâu dài Nam Kỳ” chứ không phải chỉ nhằm “để vua nhà Nguyễn chấp thuận sự có mặt của Pháp và các nước phương Tây để buôn bán và tự do truyền đạo” như thực dân rêu rao.
Dự án của Coffyn mang tên “Projet de Ville de 500.000 âmes à Saigon” (Dự án thành phố 500.000 người tại Sài Gòn) được đệ trình ngày 30-4-1862, và được Bonard chấp thuận. Đây có thể coi là một dự án quy hoạch có “tầm nhìn xuyên thế kỷ”, một điều rất cần cho tất cả những ai làm công việc quy hoạch ở bất cứ đâu. Dự án đề xuất “vẽ nên một đường nước thứ tư, gọi là kinh đấu nối (canal de jonction), nối kinh Tàu Hủ với rạch Thị Nghè bằng một kinh vòng cung để thành phố trở thành một hòn đảo, được nước bao quanh bốn phía”. Với ranh giới này, “thành phố có diện tích khoảng 2.500ha, dân số dự kiến từ 500 đến 600.000 người”. Ngoài ra, còn có một số khu đất ở ngoại thành nằm ở phía tả sông Sài Gòn và phía hữu rạch Bến Nghé cũng được dự trù dùng để xây xưởng và nhà kho. (Viết thêm về quy hoạch Coffyn 1862 - Trương Hoàng Trương, Tôn Nữ Quỳnh Trân). Thành phố được phân lô, với bốn loại là:
Loại 1: nhà cho thương gia nhỏ trên bến cảng 10x12m
Loại 2: nhà thương gia lớn trên bến cảng 20x20m
Loại 3: nhà ở trong thành phố 20x80m
Loại 4: nhà ở ngoại ô 50x90m
(Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh 300 năm địa chính)
Thành phố được chia thành hai khu vực. “Khu thứ nhất ở phía đông đường lớn Impériale (Hai Bà Trưng) cho tới rạch Thị Nghè, diện tích khoảng 200 ha. Tại đây đã đặt dinh Thống đốc, mấy cơ quan hành chính, các trại binh và hành dinh, bệnh viện quân đội, công binh xưởng, xưởng đóng tàu… Còn tất cả khu nằm ở phía Tây đường đó cho tới Chợ Lớn và gồm cả thành phố này, rộng khoảng 2.300ha, dùng làm thành phố doanh nghiệp, và ngoài ra bao gồm cả những công sở dân sự và cơ quan quản trị thành phố Sài Gòn. Những cơ sở được đặt hết chung quanh công trường bán nguyệt nằm ngay trước bến gọi là Primauguet (công trường Mê Linh). Những sở vụ khác như thánh đường, nghĩa trang, chợ búa, nhà hát… được phân bố thích hợp cho chức năng của chúng và tùy theo nhu cầu dân chúng” (Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh 300 năm địa chính). Dù không thực hiện được hoàn toàn nhưng tới ngày nay, “công trường bán nguyệt” tức công trường Mê Linh nơi có tượng đức Trần Hưng Đạo vẫn còn nguyên vẹn như quy hoạch cách nay 150 năm! Quả là một tầm nhìn đáng nể!
(Sài Gòn xưa. Nguồn: www.tienphong.vn)
Về hệ thống đường sá với “một con đường thẳng góc với thành Phụng (Nguyễn Thị Minh Khai - Chasseloup Laubat) được lấy làm trục chính để từ đó vạch ra các con lộ lớn chạy song song hay chạy thẳng góc với sông Sài Gòn. Các lộ nhỏ sẽ được phóng sao cho tạo được sự phối hợp hoàn hảo nhất với các lộ chính tùy theo địa hình từng nơi”. “Chiều rộng của các con lộ chính loại 1 là 40m, đường loại 2 là 20m. Lộ loại chính có vỉa hè 4m chạy dọc trước các dãy nhà, mỗi bên có hai hàng cây. Lộ loại 2 có vỉa hè rộng 2m và chỉ có một hàng cây. Chiều rộng của bến cảng dọc sông Sài Gòn và rạch Bến Nghé bằng chiều rộng các lộ chính là 40m, vỉa hè 6m với hai hàng cây, và nếu có thể, để sau này thiết kế đường sắt. Dọc kênh vành đai (kênh đấu nối kênh Tàu Hủ với rạch Thị Nghè) là một đại lộ có chiều rộng bằng bến cảng. Bố trí như thế, người dân có thể dạo chơi dưới bóng cây trên một chiều dài khoảng 20km ven sông rạch” (Viết thêm về quy hoạch Coffyn).
Cho tới nay, sau 150 năm quy hoạch, nhiều điều trong đề án của Coffyn vẫn còn nguyên vẹn. Con đường loại 1 xưa với hai hàng cây mỗi bên vẫn còn thấy trên đường Pasteur, đoạn từ Lý Tự Trọng tới Nguyễn Đình Chiểu, đường Trần Hưng Đạo đoạn từ Yersin tới Nguyễn Văn Cừ. Xin lưu ý, đường Trần Hưng Đạo được mở từ năm 1916, tức là sau khi đề án của Coffyn ra đời hơn nửa thế kỷ. Riêng con đường “dọc kinh vành đai” hình như chưa thực hiện được. Kinh vành đai (canal de jontion, canal de Ceinture) còn được gọi là kinh Bao Ngạn, kinh Vòng Thành được đào chưa? Đào lúc nào? Và đào xong chưa?
Theo Sơn Nam, Nguyễn Đình Đầu và Vương Hồng Sển con kinh này “chưa hoàn thành” vì “nghĩa quân quấy phá, dân phu nổi loạn” và cả vì “thiếu kinh phí”. Trong Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Sơn Nam cho biết “ngày 2-2-1863 thì xẻ đường lộ và phóng kinh đào”. Còn Vương Hồng Sển chép “Tại ngã ba rạch Chợ Lớn và rạch Lò Gốm, có rạch Kinh Vòng Thành (canal de ceinture) ăn thông đến phía sau đồn Cây Mai. Gọi kinh Vòng Thành, vì khi người Pháp chiếm Sài Gòn, vào tháng 11 năm 1862, theo dự án Coffyn, thì Đô đốc Bonard truyền đào kinh nối liền rạch Chợ Lớn đến rạch Cầu Kiệu, để làm cho có một đường nước bao bọc vùng Sài Gòn - Chợ Lớn trở thành một cù lao. Có cả thảy 40.000 nhơn công ra đào kinh ấy, định bề ngang hai mươi thước, bề sâu sáu thước, băng qua Đồng Tập Trận, dài lối sáu cây số ngàn. Nhưng công việc dở dang thất bại và Đô đốc Bonard đành bỏ nửa chừng công tác ấy” (Sài Gòn năm xưa - Vương Hồng Sển). Cả hai tác giả Sơn Nam và Vương Hồng Sển đều cho rằng “kinh Vòng Thành được đào trong thời kỳ Bonard ở Sài Gòn” nhưng thời điểm khác nhau vài tháng.
Hai tác giả Trương Hoàng Trương và Tôn Nữ Quỳnh Trân căn cứ vào bản đồ Carte general de la Cochinchine, Canton de Duong Hoa Trung 1872-1873 xác định “con kinh đã được đào và mang tên canal de Ceinture, còn được gọi là kinh vành đai, kinh Bao Ngạn”. Và thay vì “nối rạch Thị Nghè với kinh Tàu Hủ” như kế hoạch thì kinh chỉ “nối rạch Thị Nghè ở đoạn gần cầu Kiệu và chỉ đến rạch Lò Gốm” và đã “được thực hiện khá hoàn chỉnh”. Hai tác giả cho biết “dấu vết của con kênh này hiện nay không còn nhưng đối chiếu trên các bản đồ thì thấy vị trí của con kênh tương đương với đường Nguyễn Thị Nhỏ ở quận 5, đường Lò Siêu, đường Nguyễn Thị Nhỏ ở quận Tân Bình đến rạch Thị Nghè thì không còn vết tích nào. Con kênh này tồn tại cho đến khoảng giữa thế kỷ XX thì bắt đầu bị lấp dần, mô tả bản đồ “Đô thành Sài Gòn” 1958 cho thấy kênh vành đai đã bị lấp một phần ở đường Nguyễn Thị Nhỏ quận 5 hiện nay” (Viết thêm về quy hoạch Coffyn).
Xem lại bản đồ Sài Gòn năm 1883, chúng ta thấy có con kinh có tên là canal de Ceinture, nối từ kinh Nhiêu Lộc, khoảng gần Cầu Kiệu, đến rạch Lò Gốm, kế bên chùa Cây Mai. Như vậy có thể xác định rằng, con kinh Bao Ngạn đã được đào.
Trong văn bản thành lập “thị xã Chợ Lớn vào tháng 6-1865” thì tên “kinh Bao Ngạn” đã xuất hiện (Địa chí quận 5 - Quận ủy quận 5). Và do đào chưa hoàn chỉnh như kế hoạch, ít nhất là đoạn từ rạch Lò Gốm tới rạch Chợ Lớn, nên nhiều nhà nghiên cứu cho rằng “kinh chưa đào” hay “không thực hiện được”. Thực tế, phần kinh đã đào hiện rõ trên các bản đồ cho thấy, phần kinh đã đào được khá đáng kể và tạo ra một “vành đai nước chung quanh Sài Gòn”.
Alfred Schreiner ghi trong Đại Nam quốc lược sử đoạn nói về công trạng của De Lagrandière trong năm 1863 “có phỏng khai một cái kinh chạy vòng phía sau chùa Cây Mai để mà nối rạch Arroyo Chinois với rạch Thị Nghè. Người ta khởi sự đào nó trong tháng novembre - song không tất thành bao giờ. Kinh đó dụng làm đường đi cùng đường cho mấy chiếc canonnière để tuần, còn đất đào ném vô phía trong có ý đặng làm vách thành lớn dài để ngăn đở (chừng 6 ngàn thước bề trường), song không dùng nó được. Việc ấy xem ra làm không có dọ mặt đất trước, chẳng xem xét cuộc nước lớn nước ròng, không tính toán hẳn hòi chút nào, bằng chẳng làm sao mà giải cho đặng sự vô dụng kinh ấy?... Trong chuyện nầy người ta dùng chừng bốn muôn tên dân đặng mà cứu giúp họ cho qua thì cơ cẩn đang khởi sự nhiễu hại”. Như vậy, kinh được đào từ tháng 11-1863 do De Lagrandière chỉ đạo thực hiện và chưa hoàn thành như kế hoạch. Nghĩa là bề sâu của kinh không đạt cho tàu chiến đi lại, bờ đắp thì không đủ chuẩn cho sự di chuyển xe ngựa, xe kéo đại bác, thiếu tính toán về thủy văn để có thể sử dụng đủ các mùa trong năm... Thêm vô đó là chuyện Đào Bao bị nghĩa quân giết, lòng dân công xao xuyến khiến dự án phải ngưng lại.
Vành đai nước nầy đã bị lấp dần một phần do dân cư Sài Gòn-Chợ Lớn phát triển và một phần do đường nước không còn quan trọng nữa. Thập niên 1960, trên đường Lý Thường Kiệt đoạn trước trường Nữ quân nhân (khu vực đường Bắc Hải - Thiên Phước) vẫn còn một cái cống thông qua đường và trên đường Cách Mạng Tháng Tám đoạn đối diện đường Bắc Hải vẫn còn một cống thoát nước, có thể là dấu tích của kinh Vành Đai! Theo hai tác giả Tôn Nữ Quỳnh Trân và Trương Hoàng Trương thì, con kinh có lẽ bị lấp dần trong nhiều năm ở cả hai đầu mà đầu nằm ở phía Sài Gòn có thể đã bị lấp trước. Ba chữ “Kinh Bao Ngạn” vẫn còn nằm trên văn bản của chính quyền Sài Gòn cho tới năm 1959, khi chia lại đơn vị hành chánh của quận 5. Và con kinh chỉ biến mất từ năm 1969 khi hình thành hai quận 10 và 11, nơi con kinh đi qua phần lớn và biến mất hoàn toàn sau năm 1975.
Căn cứ vào các bản đồ Sài Gòn do Pháp vẽ từ năm 1883, 1892 và các bản đồ Sài Gòn thế kỷ XX tới năm 1944, kinh Vành Đai, Bao Ngạn nằm trên các con đường Nguyễn Thị Nhỏ, Lò Siêu (quận 5) chạy qua Nguyễn Thị Nhỏ, Thiên Phước (quận Tân Bình) qua Bắc Hải (quận 10) đâm qua khu dân cư nằm đối diện đường Bắc Hải - đường Huỳnh Văn Bánh chạy ra kinh Nhiêu Lộc đoạn gần cầu Kiệu bên dưới chợ Phú Nhuận. Đến khoảng năm 1958-1959, đoạn đầu của con kinh từ Cầu Kiệu cho tới gần cầu Công Lý bị lấp hẳn. Một số con rạch quanh chợ Phú Nhuận cũng biến mất trong thời kỳ này (khu vực gần chợ Phú Nhuận có một xóm mang tên Xóm Kinh Lấp). Đến năm 1962 thì đoạn kinh đến đường Bắc Hải - Cách Mạng Tháng Tám, ranh giới giữa quận 10, quận 3 và Tân Bình, cũng biến mất. Tới năm 1962 đoạn kinh từ đường Dương Công Trừng (nay là Nguyễn Thị Nhỏ) vẫn còn trên bản đồ và tới năm 1965 thì không thấy nữa (xem bản đồ Sài Gòn năm 1962 và 1965).
Dựa theo quy hoạch Coffyn, chính quyền thực dân dần thực hiện để hình thành một Sài Gòn sau này. Từ năm 1863, Sài Gòn đã được “quy hoạch” khu vực trung tâm trên cơ sở dự án Coffyn với dinh thống đốc tạm (khu vực Sở Văn hóa - Thể thao, trường Trần Đại Nghĩa), cột đồng hồ, bưu chính, điện tín, cảng, xưởng đóng tàu… Ngày 1-2-1865, đặt tên 20 con đường nằm trong khu vực quận 1 hiện nay. Hai con đường chính là Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai) là ranh giới của “nội và ngoại thành”, còn đường Impérial (Hai Bà Trưng) thì làm “ranh giới” giữa khu hành chánh và khu thương mại, dịch vụ. Phía bắc đường Hai Bà Trưng, vốn là vùng đất cao, ít dân cư được lấy làm khu hành chánh, còn phía nam đất thấp hơn và đã là khu buôn bán, dịch vụ vốn có từ trước nên để nguyên như thế. Đầu đường Hai Bà Trưng giáp với bờ sông là “một vòng xoay giao thông” (Viết thêm về quy hoạch Coffyn) có hình bán nguyệt mang tên “Rond Point” nay là công trường Mê Linh, vốn là một điểm trong dự án của Coffyn.
Nguồn: Từ Bến Nghé tới Sài Gòn, NXB. Văn hóa-Văn nghệ, TP. HCM/2015