Trong bối cảnh hiện nay, thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức về môi trường sinh thái - nhân văn. Các vấn nạn ô nhiễm môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, biến đổi quan niệm về đạo đức sinh thái,…trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra với tốc độ nhanh chóng đã gây nên những nỗi lo ngại. Việc xây dựng đạo đức sinh thái hướng tới sự thống nhất hữu cơ giữa lợi ích của tự nhiên và lợi ích của con người, xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa con người với thế giới tự nhiên, con người và xã hội nhằm bảo vệ tính chỉnh thể toàn vẹn của hệ thống tự nhiên - con người - xã hội đang là vấn đề cấp bách. Góp chung tiếng nói trên văn đàn Việt Nam hiện đại, Trần Bảo Định đã đem đến cho người đọc cái nhìn khá toàn diện, sâu sắc về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người và con người với các giá trị văn hóa ở vùng đất Nam Bộ trên cả hai mối quan hệ hòa hợp và đối đầu để từ đó hướng tới việc xây dựng đạo đức sinh thái nhân văn.
1. Quan hệ Tự nhiên - Con người.
Từ bao đời nay, với con người, thiên nhiên luôn là “người bạn lớn”, là điểm tựa tinh thần, nguồn an ủi. Mỗi khi đối mặt với nỗi bất hạnh, nỗi buồn, con người lại tìm đến với thiên nhiên để tìm điểm tựa tâm hồn, trút bầu tâm sự, xua đi nỗi buồn đau. Thế giới tự nhiên còn là tấm gương lớn, phản chiếu tâm hồn con người đồng thời cũng thanh lọc tâm hồn làm cho tâm hồn con người ngày càng trong sáng, thánh thiện hơn. Khi soi vào thiên nhiên, con người có cơ hội tự nhìn nhận lại và tự vấn bản thân mình, lắng nghe tiếng nói trong tâm hồn mình. Từ xưa đến nay, dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống sống hòa hợp với thiên nhiên và đó là một nét đẹp văn hóa tạo nên một chủ đề lớn trong văn học xuyên suốt quá trình lịch sử của văn học dân gian, văn học trung đại cũng như văn học hiện đại. Ngày nay, khi chủ nghĩa nhân văn mới do phê bình sinh thái đề xuất con người sống hòa hợp với tự nhiên, coi tự nhiên là mạch nguồn của sự sống thì mối quan hệ đó ngày càng được củng cố. Con người cần bảo vệ tự nhiên bởi phá hoại tự nhiên là đồng nghĩa với phá hoại cuộc sống của chính mình. Tự nhiên không phụ con người nếu con người biết gắn bó và bảo vệ nó. Phê bình sinh thái yêu cầu văn chương nghệ thuật không được xa rời cội nguồn tự nhiên. Với tư cách là những “sứ giả”, các nhà văn đã có sự chung tay góp sức trong việc xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên thông qua những tác phẩm văn học.
Soi chiếu vào văn xuôi của các nhà văn viết với cảm quan sinh thái như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Đoàn Giỏi, Nguyễn Ngọc Tư,…chúng tôi nhận thấy các nhà văn đó đều hướng ngòi bút vào mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên. Trong nhiều tác phẩm của mình, Bình Nguyên Lộc đã thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, nhất là ở buổi đầu khi Nam Bộ còn là vùng đất mới được khai hoang mở cõi. Điều này thể hiện rõ trong Rừng mắm, Hương gió Đồng Nai, Phù sa, Con Tám cù lần,...Con người Nam Bộ trong văn Sơn Nam sống gần gũi với thiên nhiên, có mối quan hệ mật thiết với chim muông, cây cỏ, sông nước,...Trong những ngày đầu đi khai phá vùng đất hoang sơ, họ phải sống trong môi trường khắc phải đối mặt với biết bao hiểm nguy, đối đầu với thú dữ ăn thịt, phá hoại mùa màng (Bắt sấu rừng U Minh Hạ, Sông Gành Hào, Con heo khịt,...). Để tồn tại, họ buộc phải chiến đấu với chúng tuy nhiên, những hành động đó chỉ là sự tự vệ chứ không phải là hành động tiêu diệt theo kiểu sát sinh, tận diệt. Nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư cũng đã xây dựng được những trang văn mà ở đó, con người sống hài hòa, nương tựa với tự nhiên và có thái độ tôn trọng tự nhiên. Chúng ta có thể thấy điều đó qua một số tác phẩm như Cúi xuống che chung, Tiếng dội xa xôi, Xứ cây,…Không chỉ vậy, giữa con người và các loài vật trong thế giới tự nhiên còn có sự giao cảm thiêng liêng: “Mười hai năm sau, trên mộ cố bìm bìm lợp xanh, và ai đó quả quyết mấy con thằn lằn quanh quẩn bên chỗ nằm của cố là bọn đã từng sống trên nóc mùng trong nhà cũ” (Nguyễn Ngọc Tư, 2015, tr.15). Thế giới tự nhiên còn được coi như là điểm tựa tinh thần, xoa dịu nỗi đau, cất giấu kỷ niệm đẹp như trong Cánh đồng bất tận.
Đến với văn xuôi Trần Bảo Định, chúng ta có thể thấy nét riêng khi triết lý sinh thái được nhà văn thể hiện qua cái nhìn bình đẳng với thế giới tự nhiên, sự gắn kết của thế giới tự nhiên với con người ở nhiều góc độ, nhiều mối quan hệ khác nhau.
2. Tự nhiên - con người trong quan hệ hoà hợp
Nhìn từ góc độ tự nhiên - con người trong mối quan hệ hòa hợp, Trần Bảo Định đã thành công trong việc xây dựng mối quan hệ hữu cơ giữa con người với thế giới tự nhiên. Ông đã tái hiện một cách chân thực, sinh động cuộc sống của những người dân tha hương khi đến với vùng đất Nam Bộ từ những ngày đầu họ đặt chân đến mảnh đất này để khai khẩn đất hoang để làm nơi sinh sống, chốn mưu sinh. Qua những trang văn của Trần Bảo Định, hình ảnh con người hiện lên trong mối quan hệ gắn bó, hòa hợp với thế giới tự nhiên. Những con vật, loài vật cũng có linh hồn, biết lắng nghe, gắn bó với con người. Từ chỗ thiên nhiên hoang vu, hiểm trở đến nỗi “Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng cũng ghê”, họ đã chinh phục, cải tạo để rồi biến thiên nhiên từ chỗ đối đầu trở thành người bạn. Họ đã sống và gắn chặt với thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên để sinh tồn. Với sự cần cù, chịu thương chịu khó lao động, họ đã biến mảnh đất hoang hóa trở thành hoa thơm, quả ngọt, gạo dẻo, nếp thơm,…để phục vụ cho nhu cầu trong đời sống hằng ngày của mình.
3. Thiên nhiên hỗ trợ con người
Trước hết, thiên nhiên được ví như “người mẹ hiền” đã hào phóng ban tặng cho những đứa con của mình “dòng sữa” ngọt ngào, bổ dưỡng. Nước nổi về mang về lượng phù sa bồi đắp cho ruộng vườn, đem về biết bao nhiêu nguồn lợi thủy hải sản. Người nông dân đã gắn bó với ruộng đồng và biết dựa vào tự nhiên để mưu sinh. Niềm vui, nỗi buồn của người nông dân dựa vào con nước và những nguồn lợi thủy sản, lương thực mà con nước mang lại: “Năm nào, nước lớn tôm cá nhiều, phù sa bồi lắng cao thì trúng lúa, dân miệt Đồng Tháp Mười rất vui” (Trần Bảo Định, 2014, tr.180). Với người dân miền đồng bằng sông nước mỗi mùa nước nổi là một mùa vui bởi: “Màu nước ngầu đục phù sa, bao sản vật tôm cá theo nước tràn về” (Trần Bảo Định, 2014, tr 175). Không chỉ có cá tôm, vùng đất này còn sản sinh ra biết bao loại sản vật, đem lại cuộc sống ấm no cho người dân nơi đây: “đẻ ra lúa, khóm, khoai, đĩa cá...mật ong tràm sinh sôi” (Trần Bảo Định, 2017, tr.32). Còn trong Thằng Mẫm Đực, cá lóc giúp con người dự báo thời tiết trong sản xuất nông nghiệp. Con người dựa vào thời gian cá lóc mái đẻ để gieo mạ, cấy lúa bởi con cá cái đẻ rất hiểu ý trời, lúc nào mưa nắng.
Bên cạnh việc đem lại nguồn sống, nguồn lương thực, thực phẩm, thiên nhiên còn được ví như người thầy thuốc khi các loài trong thế giới tự nhiên còn là những bài thuốc dân gian chữa bệnh hiệu quả cho người dân nghèo. Cây xoài mút được coi như cây “thần dược”, giữ vai trò độc đáo trong việc chữa trị những bệnh thông thường cho người dân:
“Vỏ trái xoài chín dùng cầm máu tử cung, khai huyết, chảy máu ruột…chữa đau răng. Vỏ thân xoài chữa thấp khớp, ghẻ lở, rửa khí hư bạch đới phụ nữ. Thịt xoài dùng chữa trĩ, kiết lị. Lá xoài tuy có độc tố, nhưng lá non có thể làm rau ăn và trị tiêu chảy” (Trần Bảo Định, 2018b, tr.128).
Còn cây mù u vừa là loại cây có ích trong xây dựng nhà cửa, vừa là phương thuốc giúp con người chữa bệnh: “Trồng cây mù u vừa cho gỗ làm cột kèo, vừa lấy trái làm thuốc trị ghẻ trị phỏng, giúp vết thương mau kéo lành da và chế biến dầu thắp đèn nơi điền dã” (Trần Bảo Định, 2014, tr.68 ). Món cháo cá chạch, cá chạch om hột he lấy nước uống, cá chạch hầm rượu bằng nồi đất…trong Cúng việc lề được xem là “bí quyết gia truyền” của họ Tạ trong việc giữ vững và phát huy “bản lĩnh đàn ông”. Nhờ được “mách nước” bí quyết đó mà vợ chồng Tư và Sáu đã có con mặc dù Sáu bị thương cụt cả hai chân, chức năng làm chồng suy giảm. Còn ba khía trong Kiếp ba khía lại được dùng làm phương thuốc chữa bệnh tan máu bầm, tăng sức đề kháng cho Hai Quá Giang: “Thân tàn, ma dại, lết về đất cũ, nhờ bà con chăm sóc và bắt ba khía giã nát ra, vắt nước cốt uống trị tan máu bầm, nâng sức đề kháng” (Trần Bảo Định, 2014, tr.219). Loài chim sẻ trong Chim sẻ làng quê thì được người làng coi như vị cứu tinh trừ đau yếu bệnh tật. Con người dùng phân chim sẻ để trị những chứng bệnh thông thường như sưng cuống họng, ung nhọt, bụng chướng đầy hơi, đau mắt. Với những công dụng to lớn đó, thế giới tự nhiên được ví như là “người thầy thuốc” nhiệt tình, trách nhiệm, giàu y đức, đối đãi, chăm sóc con người bằng cả tấm chân tình, đem đến cho con người biết bao phương thuốc quý. Chính điều đó càng khẳng định vai trò, tầm quan trọng của thế giới tự nhiên đối với cuộc sống của con người.
Ngoài ra, thế giới tự nhiên trong văn Trần Bảo Định gắn bó mật thiết với đời sống sinh hoạt, chiến đấu của con người. Như “chiếc phao cứu sinh”, tự nhiên đã gắn bó, giúp đỡ con người những lúc khó khăn, hoạn nạn và sẵn sàng nắm lấy bàn tay con người trong những tình thế nguy nan nhất. Để có thể sống sót qua cơn đói lúc giáp hạt, con người dựa vào tự nhiên để mưu sinh: “Cứ đến mùa nước nổi, chị Năm cùng Hạ chống xuồng đi đập lúa ma, một loại lúa trời, không trồng mà có. Gạo lúa ma thơm dẻo, nuôi người nghèo khó sống qua cơn đói lúc giáp hạt” (Trần Bảo Định, 2017, tr.57).
Tất cả những gì tự nhiên mang lại cho đời sống con người càng khẳng định tầm quan trọng của thế giới tự nhiên cũng như mối quan hệ gắn bó mật thiết của tự nhiên đối với cuộc sống con người. Trong bài viết Gửi theo Bông trái quê nhà, Huỳnh Như Phương đã viết:
“Đóng góp vào khuynh hướng văn học đó, nét riêng của Trần Bảo Định có lẽ là sự kết hợp bước đầu tinh thần nhân bản Phật giáo với chủ nghĩa nhân văn sinh thái. Thiên nhiên nuôi dưỡng và vun đắp Phật tánh nơi con người. Bông trái đâu chỉ chữa bệnh cho người mà còn bồi đắp tình yêu, tấm lòng thủy chung, tính hướng thiện ngay trong nghịch cảnh” (Huỳnh Như Phương, 2018).
Là nhà văn sinh ra, lớn lên và gắn bó cuộc đời mình với vùng đồng bằng sông nước Nam Bộ, Trần Bảo Định phát hiện ra rằng nước là yếu tố quan trọng nhất cấu thành nên sự sống và sự cân bằng sinh thái tự nhiên. Không gian sông nước là không gian chủ đạo, trở đi trở lại trong nhiều tác phẩm của Trần Bảo Định. Biểu tượng “nước” ở đây gắn liền với hệ thống các dòng sông, ao, hồ, kênh, rạch, qua âm thanh của tiếng mưa, tiếng sóng vỗ bờ,…Khảo sát trong 7 tập văn xuôi của Trần Bảo Định, chúng tôi thấy có 115/145 tác phẩm có sự xuất hiện của nước (Phụ lục 5). Biểu tượng “nước” trong văn Trần Bảo Định mang ý nghĩa chỉ nguồn sống, trung tâm tái sinh như biểu tượng “nước” trong văn hóa nhân loại và văn hóa Việt Nam. Nước là yếu tố mang tính chất sống còn của các loài trong thế giới tự nhiên: “Nước nuôi Người, nuôi Đất, nuôi Trời. Thiếu hoặc mất Nước, thì bất luận Người - Đất - Trời đều tiêu vong như nhau” (Trần Bảo Định, 2018c, tr. 58). Với các loài sinh vật dưới nước như cá, tôm, lươn, còng, ba khía,...Nước là môi trường sống, là nơi chúng sinh ra, lớn lên, sinh con đẻ cái và duy trì cuộc sống. Với các vật trên cạn, các loài cây, nước là yếu tố cần thiết không thể thiếu để duy trì sự tồn tại. Nếu thiếu nước hay nguồn nước bị ô nhiễm các loài vật sẽ không sinh trưởng, phát triển, đơm hoa kết trái và cho hoa thơm, quả ngọt. Trong Bạc Liêu nhãn đầu mùa, “Nước (ngọt) đối với cây nhãn Bạc Liêu là vấn đề tối hệ trọng, vì nhãn sống từ đất giồng cát ven biển” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 60). Với con người, nước là yếu tố đặc biệt quan trọng trong đời sống vật chất, sinh hoạt cũng như đời sống văn hóa tinh thần. Người nông dân gắn bó với ruộng đồng, với sông nước, ao hồ, kênh rạch để lao động sản xuất, sinh hoạt, mưu sinh. Nước nổi về mang về lượng phù sa bồi đắp cho ruộng vườn, đem về biết bao nhiêu nguồn lợi thủy hải sản, hình thành nên các nghề gắn liền với cuộc sống miền sông nước nơi đây như nghề trồng lúa nước, nghề đánh bắt thủy hải sản, nghề bán vàm, buôn bán trên sông, nghề Bà Cậu,…Chính vì ý thức nước là một phần tất yếu không thể thiếu trong cuộc sống nên trong những ngày đầu đi khai khẩn đất hoang, những lưu dân Nam Bộ đã đặt vấn đề cải tạo nguồn nước bị nhiễm phèn lên hàng đầu và đã tìm ra những biện pháp hữu hiệu. Gò Châu Mai ngày trở lại đã nói về cách đối phó với cảnh nước phèn trong những năm tháng ông Năm Tâm đi kháng chiến ở bưng. Trong Cá sặc rằn miệt thứ, ở vùng đất U Minh Thượng, vùng đất mà “Trời giận, cho thiếu và khan hiếm nước ngọt để đuổi người đi chỗ khác” (Trần Bảo Định, 2017, tr. 35) con người chẳng những không bỏ đi mà còn tìm ra trăm phương nghìn kế để đối phó, đã dám “cả gan cãi trời tạo ra miệt thứ” (Trần Bảo Định, 2017, tr. 35). Chính vì ý thức về vai trò quan trọng của nước nên ba của Phủ Cậu ân cần dặn má ông:
“Đừng thấy nước Cửu Long Giang mỗi năm một mùa nước nổi tràn sông, ngập đồng linh láng như biển cả mà đối xử tệ bạc hoặc phung phí nước. Rồi, sẽ có lúc mất nước trơ đáy sông, nếu một mai con người không biết chung tay hay hững hờ gìn giữ nước!” (Trần Bảo Định, 2018c, tr. 58).
Nước cần thiết và tối quan trọng đối với cuộc sống của muôn loài, đó là lý do nước xuất hiện với tần suất lớn trong các tác phẩm của Trần Bảo Định.
Bên cạnh đó, nước trong văn của Trần Bảo Định còn được dùng với biểu tượng chỉ thời gian thông qua các từ “con nước”, “nước lớn”, “nước ròng”, “nước chửn ròng”, “nước nổi”,...Đây là những từ thường dùng của dân chài lưới và người dân sống ở vùng sông nước để chỉ nước thủy triều lên xuống theo thời gian. Khảo sát ở các tác phẩm có sự xuất hiện của yếu tố nước, chúng tôi thấy có 34 tác phẩm nước được dùng với ý nghĩa biểu tượng dùng để chỉ thời gian. Nước gắn liền với các lao động, mưu sinh cũng như các hoạt động văn hóa tinh thần của con người: người nương theo con nước mà di chuyển trong Cá bống kèo quê ngoại; dựa vào con nước để đánh bắt cá, dỡ chà, lấy con nước tính thời gian và bàn luận âm dương trong Dỡ chà ăn Tết; ghe tàu neo đậu nhờ con nước trong Thát lát Kỳ Hôn; căn giờ con nước lớn vào lúc 9 giờ sáng để làm giỗ Tỗ vì đó là giờ Hoàng đạo trong Giỗ tổ nghề mộc xứ Chuồng Voi hay căn con nước để kịp về cúng giỗ trong Lễ giỗ người anh hùng đất Ba Châu,…
Với ý nghĩa của sự hiện hữu, che chở, bảo bọc, là cái nôi của sự sống muôn loài động vật, thực vật cũng như con người, đất cũng đã xuất hiện gần như tất cả các tác phẩm của Trần Bảo Định với các dạng thức khác nhau: là nơi ở, nơi cư trú, nơi diễn ra mọi hoạt động lao động, sản xuất cũng như các hoạt động văn hóa tinh thần,…của con người và thế giới muôn loài. Khảo sát trong 7 tập văn xuôi của Trần Bảo Định, chúng tôi thấy có 141/145 tác phẩm có sự xuất hiện của đất (Phụ lục 5). Với các loài trong thế giới tự nhiên như cây cối, chim, cá, các loài bò sát,…Đất là cái nôi của sự sống, là môi trường sống, nơi chúng sinh ra, lớn lên, sinh sống, làm tổ, sinh con đẻ cái, là môi trường tồn tại và nuôi dưỡng cuộc sống muôn loài. Đặc biệt với các loài cây, đất là nơi các loài cây trái sinh ra, lớn lên, trưởng thành, đơm hoa kết trái. Cây chỉ phát triển và cho hoa thơm, quả ngọt nếu đó là vùng đất tốt: “Cây trồng thích hợp thổ nhưỡng đơm hoa kết trái, nhứt là giống nhãn Su-bic. Tiếng lành đồn xa, cây nhãn phát triển sang Vĩnh Châu vùng ven biển giáp với Xiêm Cán” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 54). Nếu bứng rễ cây ra khỏi lòng đất, cây sẽ bị cắt lìa sự sống hoặc nếu có sống thì cũng bị thoái hóa biến chất: “Người ta bứng gốc bán rễ vú sữa cũng đồng nghĩa cắt lìa sự sống của vú sữa, và hơn vậy nữa, một ngày không xa, cây vú sữa thơm ngon tuyệt giống!” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 32).
Đối với con người, đất là nơi con người duy trì sự sống, sinh hoạt, lao động, sản xuất. Mọi hoạt động của người đều gắn liền với đất: “Nếu Trời là nơi quy định số phận sống chết, sướng khổ con người thì Đất là nơi con người phải sống phụ thuộc suốt đời đói no, hung kiết” (Trần Bảo Định, 2018c, tr. 58). Từ những buổi sơ khai, vùng đất Nam Bộ là nơi hoang vu, hoang hóa. Với quan điểm “an cư lạc nghiệp”, con người muốn tồn tại cần có “tấc đất cắm dùi”, những người lưu dân từ các tỉnh miền Trung, miền Bắc theo làn sóng di dân đã đến mảnh đất Nam Bộ khai hoang, cất nhà cửa, lập ấp, lập làng rồi lập nghiệp sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Vì bảo vệ mảnh đất quê hương, bảo vệ nơi “chôn nhau cắt rốn”, đã có biết bao người anh hùng hi sinh như Thủ Khoa Huân trong Tản mạn…“chim quyên”, phó soái Lê Tuyên trong Kim Bông thần Mã, Huy trong Chuyện người,…Ngoài ra, còn có những người phụ nữ sẵn sàng hi sinh cả tuổi thanh xuân, cả mạng sống của mình khi đi làm dâu xứ người để bảo vệ từng tấc đất quê hương, mở mang bờ cõi như công chúa Huyền Trân, công nữ Ngọc Vạn trong Phận má hồng, công nữ Ngọc Khoa trong Hỡi ai, còn thương nhớ?,…
Đối với con người, đất không chỉ là nơi sinh sống mà còn là chốn yên nghỉ vĩnh hằng. Khi không còn tồn tại trên cõi đời, trút hơi thở cuối cùng, con người lại trở về với đất mẹ. Trong Tình người nghĩa đất, mồ mả ông bà của chú Năm, trong đó có mộ cụ Cả còn nằm lại đất cù lao” và khi chú Năm, cháu nội đích tôn của cụ Cả về đã “cật lực đắp thêm đất lên mộ phần ông nội và nguời thân, vì lão tin cao nấm ấm mồ” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 42). Hay trong Niêm ấn ngày 25 tháng Chạp, vào ngày tảo mộ trên đường làng người đi đến khu nghĩa địa của làng để tảo mộ đông đúc, tấp nập. Họ đến để “đắp thêm đất lên nấm mồ cho người nằm dưới ba tấc đất ấm lòng chuẩn bị đón xuân” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 91).
Trong văn xuôi Trần Bảo Định, bên cạnh biểu tượng “đất”, “nước”, trăng được xây dựng như một biểu tượng đặc sắc. Khảo sát trong 7 tập văn xuôi, chúng tôi thấy có 39/145 tác phẩm có sự xuất hiện của trăng với dáng vẻ khác nhau cũng như mang các ý nghĩa khác nhau (Phụ lục 5). Trăng thể hiện mối quan hệ gắn kết giữa con người và thiên nhiên. Trăng là một thực thể của vũ trụ, tỏa ánh sáng, tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên và gắn bó với cuộc sống con người và vạn vật. Trong rất nhiều tác phẩm của Trần Bảo Định, trăng như là người bạn tâm giao, gắn bó với đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất, chiến đấu cũng như đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa tín ngưỡng người dân Nam Bộ. Trăng soi bóng nước, tỏa sáng xuống những khu vườn quê cùng với câu hò huê tình tạo nên những bức tranh phong cảnh hữu tình trong Thát lát Kỳ Hôn, Vú sữa, Chuối trổ buồng, Trăng Rạch Miễu,…Trăng soi sáng người lao động trong những đêm xuống đồng hay những đêm đi câu, quăng chài, bắt cá trong Xuống đồng miền quê Nam Bộ. Trăng xé màn đêm soi bóng nghĩa binh đánh giặc trong Mối tình câm. Gió lùa trăng qua thềm, mùi sầu riêng ngây nồng hương nương theo bóng trăng lẻn vào nhà tạo nên một bức tranh thơ mộng có sự hòa quyện giữa hương và sắc trong Sầu riêng chín rụng,…Trăng còn gắn với tình yêu lứa đôi của các chàng trai, cô gái. Những đêm trăng sáng, những điệu hò, câu hát trên sông vào những đêm trăng là cái nền của biết bao chuyện tình đẹp. Trăng tỏa sáng tràn ngập khu vườn măng cụt tạo nên bầu không gian thơ mộng trong đêm tình tự của Bảy Đặng và Hai Lượng trong Măng cụt - trái tình yêu. Bên cạnh đó, trăng còn gắn liền với nỗi khổ đau, cô đơn của con người, soi chiếu tâm hồn con người vào những lúc cô đơn, cùng cực, tuyệt vọng nhất, là người bạn mà con người có thể trải lòng, bộc bạch những tâm tư thầm kín.
Trong Xóm Mù U, trong ngày giỗ mẹ vào rằm tháng Giêng, trăng rằm sáng vằng vặc quê nhà đã gợi lên trong lòng Tám Thừa tình thương tía má sống cuộc đời nghèo khổ, thương cục đất xóm Mù U đã gắn bó với con người và đặc biệt Tám Thừa đã rơi nước mắt vì thương người má đã chết khi đi lấy tinh khí trăn để lấy tiền mua sữa cho con.
Trong Lễ giỗ người anh hùng đất Ba Châu, khi nhìn ánh trăng náu vào đêm mùng Mười đã gợi lên trong lòng Năm Trái nỗi xót xa khi nghĩ đến người anh hùng nghĩa sĩ đất Ba Châu - cụ Tán Kế đã hi sinh vì dân vì nước.
Trăng nơi hoàng cung nhả từng sợi tơ lòng buộc ràng tâm hồn cô đơn, hiu quạnh của Công nữ Ngọc Vạn khi bà đi lấy chồng xa vì hạnh phúc và cuộc sống ấm no hạnh phúc của muôn dân trong Phận má hồng.
Ngoài ra, trăng còn là “chứng nhân” cuộc đời, chứng kiến biết bao chuyện đời, chuyện người. Trăng trải dài cuộc đời đầy gian truân và bất hạnh của cô Năm Hạnh trong Trăng Rạch Miễu khi cô phải khóc mẹ, khóc cha và giờ đây, cô lại khóc chồng khi vừa bước vào ngưỡng ba mươi tuổi. Thấy trăng cô như được thấy chồng. Trăng Rạch Miễu sau đó đã theo cô trong suốt chặng đường hoạt động cách mạng. Từ đầu đến cuối tác phẩm, cụm từ “Trăng Rạch Miễu” đã xuất hiện 15 lần như một điệp khúc thể hiện sự gắn bó giữa trăng với cuộc đời của một con người.
Bên cạnh đó, trăng còn được dùng để biểu thị thời gian. Khảo sát ở các tác phẩm có sự xuất hiện của trăng, chúng tôi thấy có 17 tác phẩm trăng được dùng với ý nghĩa biểu tượng chỉ thời gian thể hiện qua các từ như: “mùa trăng”, “con trăng”, “mùa trăng thu”, “nửa tuần trăng”, trăng đêm “sảy giường chiếu”[1],...Trong Miếu thờ đôi ngỗng ân tình, trăng là thước đo thời gian chờ đợi người chồng đi làm ăn xa của Mai và thời gian đi ở đợ của chồng cô: “Hai mùa trăng, thân Mai “phòng không chiếc bóng” đợi chờ chồng! Hai mùa trăng, Khanh chịu cảnh “cá chậu chim lồng” (Trần Bảo Định, 2018a, tr.262). Hay trong Gánh hàng rong xứ người, chị Tư Lành đau đáu đếm thời gian lưu lạc nơi đất khách quê người qua những mùa trăng,…
Đặc biệt, trăng gắn với đời sống văn hóa tinh thần, với đời sống tín ngưỡng, tâm linh của con người. Trong Nhớ mùa cúng Trăng, trăng xuất hiện với tư cách một vị thần trong văn hóa tín ngưỡng của người Khmer - Thần Mặt Trăng. Lễ hội Óoc - om - bok hay còn gọi là lễ cúng Trăng diễn ra vào đêm rằm tháng Mười là một lễ hội lớn bởi Thần Mặt Trăng đi sâu vào trong tâm thức, đời sống tín ngưỡng của người dân nơi đây. Với người Khmer, “ngoài Mẹ Đất, Mẹ Nước còn có Thần Mặt Trăng - vị thần tối quan trọng trong việc bảo vệ mùa màng, ngăn ngừa sâu bịnh, tạo gió thuận mưa hòa” (Trần Bảo Định, 2018a, tr.227). Chính vì tin vào độ linh thiêng của Nữ thần Mặt Trăng nên khi thi lễ, thầy Cả đã tạ ơn và cầu xin thần tiếp tục phù hộ mùa màng được thuận lợi, bội thu, đời sống nhân dân được no ấm, yên vui, hạnh phúc. Trong tác phẩm, trăng vừa xuất hiện với tư cách một vị thần nhưng đồng thời cũng là “chứng nhân” của lễ Cúng Trăng. Với vợ chồng Thạch Sum, Thần Mặt Trăng đã biến cho điều mơ ước khi xưa của họ trở thành hiện thực, đem lại cho họ niềm hạnh phúc, và đêm lễ Cúng Trăng cũng là đêm hội tình yêu của họ. Ở Rằm tháng Mười Một nhớ về Gò Tháp, trăng gắn với đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Gò Tháp trong buổi lễ hội ghi nhớ công ơn người anh hùng có công với dân, với nước Đốc binh Kiều: “Cả xóm làng Tân Kiều, Mỹ Hòa đều nhộn nhịp chuẩn bị “cờ đèn - kèn - trống” cho lễ hội Thiên hộ Dương - Đốc binh Kiều ngày từ hôm 12, 13. Trăng Tháp Mười vằng vặc “cánh đồng sọ Tây” chạy tít tắp chân trời” (Trần Bảo Định, 2018c, tr. 113 ).
Có thể nói, trăng trong văn xuôi của Trần Bảo Định được xem là một biểu tượng đặc sắc góp phần thể hiện sự hòa hợp, gắn bó giữa con người với tự nhiên. Dù trăng tròn vành vạnh, tràn đầy hay trăng tàn, trăng khuyết,…thì trăng cũng gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên và gắn với tâm trạng vui buồn, gắn với cuộc đời con người. Qua sự soi chiếu của trăng, cảnh thiên nhiên sông nước Nam Bộ hiện ra với vẻ đẹp lung linh, huyền ảo. Đặc biệt, trăng trong văn xuôi của Trần Bảo Định đã chiếu sáng một tấm lòng thiết tha, gắn bó đối với thiên nhiên tạo vật, quê hương đất nước.
Có thể nói, trong văn xuôi Trần Bảo Định, thế giới tự nhiên vừa là cái nôi nuôi dưỡng, là môi trường sống, vừa là “người bạn lớn” của con người với tấm lòng rộng mở, thủy chung. Tự nhiên gắn bó với đời sống chiến đấu, lao động đầy vất vả, gian nan cũng như gắn bó với đời sống tinh thần của con người. Đó là món quà vô giá mà tạo hóa đã ban tặng cho con người.
4. Con người gắn kết với thiên nhiên
Đáp lại tấm chân tình, sự chở che, nuôi dưỡng của thế giới tự nhiên, con người coi thế giới tự nhiên như “người tri kỉ” và trân trọng, gần gũi, gắn bó với nó như người bạn thực thụ. Những người lao động chất phác không nghĩ rằng “vật dưỡng nhơn” mà họ luôn xem đấy là những người bạn, những người ơn của họ. Từ việc ý thức được vai trò quan trọng của thế giới tự nhiên đối với đời sống vật chất và tinh thần của mình, con người đã có ý thức tôn trọng, nâng niu và bảo vệ tự nhiên. Trong Thằng Mẫm Đực, khi phát hiện thằng Mẫm Đực đi bắt cặp cá lóc đang giữ bầy con, dì Hân đã la nó và giải thích cặn kẽ, đồng thời đưa ra bài học giáo dục mang đậm tính triết lý nhân sinh: “Đành rằng “vật dưỡng nhơn”, nhưng tạo hoá cho muôn loài sự sống, con nhân danh “vật dưỡng nhơn” mà cướp đi sự sống ấy sao? Nếu con cướp đi sự sống ấy thì ai sẽ là kẻ cướp đi sự sống của con?” (Trần Bảo Định, 2014, tr.34 ). Còn dì Lan khi biết chuyện cũng vội nói với Mẫm Đực: “Ý! Đừng câu con, tội chết!” (Trần Bảo Định, 2014, tr.36 ). Với người làng Thuận Mỹ, chim sẻ là bạn nên “Người làng Thuận Mỹ không có thói quen uống máu, ăn thịt chim sẻ. Kẻ lạ đến giăng bẫy bắt sẻ, người làng xua đuổi. Họ không tin máu và thịt chim sẻ “bổ thận tráng dương” (Trần Bảo Định, 2017, tr.133). Với họ, đó là cái ác. Còn trong Chôm chôm mùa nhớ, chú Ba gắn bó với cây, hiểu cây đến tận “chân tơ kẻ tóc”. Sự gắn bó của chú Ba với cây chôm chôm trải dài theo thời gian cuộc đời chú từ lúc sống cho đến lúc chết. Khi bệnh nặng bị bệnh viện trả về, trong tình trạng hơi thở yếu ớt, cơ thể nóng hừng hực, nằm trong nhà ngửi thấy mùi hương chôm chôm theo gió trôi vào không gian tĩnh mịch quê nhà, chú Ba khẽ khàng, chậm rãi: “Tía thèm ăn… một trái chôm chôm!” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 233). Biết là mình không qua khỏi, sợ con gái và con rể cầm cố hay bán vườn chôm chôm để chữa bệnh cho mình theo kiểu “còn nước còn tát”, chú đã dặn dò một cách nghiêm khắc không được bán vườn chôm chôm vì bất cứ lí do nào. Tâm nguyện cuối cùng của chú là sau khi chết vẫn muốn được gắn bó với vườn chôm chôm, muốn thân xác mình hòa tan vào trên mảnh đất vườn của tổ tiên ông bà để lại và trở thành nguồn dưỡng chất nuôi dưỡng cây, muốn linh hồn mình phảng phất trong cây trái để con cháu nhìn thấy mình cũng như mình có thể dõi theo cuộc sống của con cháu.
Từ mối quan hệ gắn bó mật thiết, con người đã có sự tương tác với tự nhiên để nâng cao hiệu quả sản xuất. Trong Mãng cầu xiêm ngã Năm, loài mãng cầu xiêm có đặc điểm nhiều bông nhưng khó đậu trái do cấu trúc của hoa này đặc biệt: “Khi trổ, đầu bông mãng cầu xiêm chúi xuống và lúc nở, cánh bông mở hi hí…khiến gió, ong bướm khó đem phấn nơi bông khác đến thụ phấn” (Trần Bảo Định, 2018b, tr.181). Nếu để mãng cầu xiêm tự thụ phấn theo cách tự nhiên sẽ không có kết quả cao do đó mãng cầu xiêm cần có sự can thiệp của bàn tay con người giúp nó trong việc “thụ tinh nhân tạo”, thụ phấn cho hoa, bởi theo lời của bác Hai: “Vô sinh hoặc hiếm muộn, người còn biết dùng phương pháp thụ tinh nhân tạo. Huống gì trồng cây mãng cầu xiêm, người không thay được côn trùng thụ phấn bông!” (Trần Bảo Định, 2018b, tr.181).
Khi nói về mối quan hệ gắn bó, hòa hợp, về cách ứng xử nhân văn, đầy tình người giữa con người với thiên nhiên, giọng điệu ngợi ca được Trần Bảo Định sử dụng như một công cụ đắc lực. Đó là ngợi ca những con người biết trân trọng, nâng niu và bảo vệ tự nhiên, coi các loài vật trong thế giới tự nhiên như bè bạn và ra sức bảo vệ chúng. Trong Chim sẻ làng quê, giọng điệu ngợi ca hướng đến những người dân làng đã không có thói quen uống máu, ăn thịt chim sẻ, người làng xua đuổi những kẻ lạ đến giăng bẫy bắt sẻ. Còn Thương thân còng cọc, giọng điệu ngợi ca hướng đến tầng lớp lưu dân nghèo đã có sự đồng cảm, biết thương cho thân phận còng cọc nhỏ bé đồng thời ca ngợi sự gắn bó và thân thiết giữa còng cọc với con người: “Chiều tắm bến sông, còng cọc bay về đùa giỡn và tắm cùng người” (Trần Bảo Định, 2017, tr. 124) và “người chưa bao giờ nghĩ đến sát hại hoặc tìm vị thuốc trường sinh, tráng dương nơi máu thịt nó” (Trần Bảo Định, 2017, tr. 124). Giọng điệu ngợi ca còn được tác giả dùng khi xây dựng câu chuyện tình bạn thú vị cũng như thấy sự gần gũi gắn bó giữa “tôi” và chích chòe than trong Chích chòe than vườn ông Hội, giữa Sáu với chích chòe lửa trong Lửa rừng trong tiếng hót hay tình yêu, sự gắn bó của chú Ba với cây chôm chôm trong Chôm chôm mùa nhớ, giữa cu Lỳ và chim khách trong Cu Lỳ và chim khách. Giọng điệu ngợi ca góp phần nhân rộng, phát triển mối quan hệ giữa tự nhiên với con người; hướng con người tới lối sống đạo đức sinh thái mà ở đó con người và thế giới tự nhiên là một thể thống nhất, hòa hợp.
Tóm lại, qua những trang văn của Trần Bảo Định, chúng tôi nhận thấy thế giới tự nhiên có sự gắn kết với con người từ đời sống vật chất đến đời sống tinh thần, là nơi để con người nương tựa, là chốn mưu sinh của con người trong suốt chiều dài lịch sử. Ngược lại, con người có sự gắn bó mật thiết với thế giới tự nhiên, coi thế giới tự nhiên như “người bạn lớn”, “người mẹ hiền”, “người thầy thuốc”, “phao cứu sinh” và có thái độ tôn trọng, có ý thức bảo vệ thế giới tự nhiên. Đó là mối quan hệ tương hỗ, cộng hưởng để cùng nhau tồn tại và phát triển.
5. Tự nhiên - con người trong quan hệ đối đầu
Tự nhiên gắn bó với đời sống con người, đem lại cho con người biết bao lợi ích thế nhưng một số người lại bội bạc quay lưng trở mặt với tự nhiên. Bên cạnh những con người có ý thức về vai trò, tầm quan trọng của thế giới tự nhiên đối với con người và ra sức gìn giữ, bảo vệ thì vẫn còn đó những con người vì lòng tham, vì lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm mà đã ra sức tàn phá, khai thác, tận diệt thế giới tự nhiên. Với kiểu tư duy “nhân loại trung tâm”, coi thế giới tự nhiên là “người đầy tớ” trung thành luôn phải sẵn sàng phục vụ “chủ”, con người đã có những hành động thái quá trong cách ứng xử với tự nhiên, tàn phá cùng kiệt thế giới tự nhiên để phục vụ cho nhu cầu ích kỷ của mình. Tìm hiểu, khai tác mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên trong sự đối đầu, những trang văn của Trần Bảo Định đã chạm vào vấn đề mang tính thời sự toàn cầu.
6. Hành trình bốc lột tự nhiên của con người.
Với cái nhìn mang tính thời cuộc, Trần Bảo Định đã phản ánh được thực trạng con người tàn phá, bóc lột thế giới tự nhiên một cách tàn bạo, không thương tiếc. Trước hết hành trình bóc lột tự nhiên của con người thể hiện qua hành động tước đi sự sống của muôn loài bằng những việc làm vô tình cũng như hữu ý. Trong Cánh chim thằng chài, Dòng dọc xây tổ ấm, Chuồn chuồn điểm nước, chim thằng chài, chim dòng dọc và chuồn chuồn bị tước đi sự sống, bị bọn trẻ con tiêu diệt bằng trò chơi thiếu suy nghĩ: “Đám trẻ tụi tôi khoái rình bắn thằng chài đậu rình cá trên đầu bặp dứa nước bằng cái ná thun, đạn đất sét vo tròn” (Trần Bảo Định, 2017, tr.15). Chúng “rủ nhau đi chọc tổ chim dòng dọc mái, lấy trứng húp sống, bắt chim ra ràng rô ti nước dừa, cắt tổ xỏ chân làm giày đá banh” (Trần Bảo Định, 2017, tr.56). Bìm bịp bị tận diệt do bị bọn trẻ con tìm ổ để lấy trứng, bắt con. Loài chuồn chuồn thì bị biến thành món đồ chơi và chết trong tay bọn trẻ con khi chúng bắt chuồn chuồn tham gia vào cuộc đấu sinh tử, tàn sát lẫn nhau để thỏa mãn thú vui của mình.
Không chỉ trẻ con tàn sát thế giới tự nhiên bằng những hành động, trò chơi thiếu ý thức mà ngay cả người lớn cũng tàn sát các loài vật bằng những hành động có chủ ý. Loài ba khía trong Kiếp ba khía bị tàn sát bởi bom đạn chiến tranh do con người gây ra: “Pháo đài B52 rải thảm, máy bay rải chất khai quang, rừng trơ trụi lá và cây tiếp nối cây khô chết đứng trên đất quê nhà. Ba khía chết dần theo chất độc. Không còn nơi nào bình yên trên bán đảo Cà Mau” (Trần Bảo Định, 2014, tr. 217). Con người bắt các loài vật trong thế giới tự nhiên để thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ của mình. Trong Tam thanh tứ tuyệt, người bắt chim bất kể chim gì, bất kể trống mái: “Trống bán chợ, mái nướng lửa than làm mồi đưa cay” (Trần Bảo Định, 2017, tr.109). Loài còng trong Thần khẩu hại xác phàm thì bị con người tận diệt và hóa kiếp thành những món ăn ngon để thỏa mãn nhu cầu đứng đầu trong “tứ khoái” của mình với món còng chiên bột, còng rang me, gỏi rau chuối còng, canh chua còng. Ăn không xuể, người làm mắm còng để dành ăn từ từ. Trước cảnh tượng đau lòng đó, “Tía má còng bất lực, nhìn đàn con cháu lần lượt hóa kiếp hãi hùng” (Trần Bảo Định, 2015, tr.143). Loài còng cọc trong Thương thân còng cọc thì bị truy bắt, tận diệt khi con người truyền tai nhau bài thuốc về máu còng cọc được coi là “thần dược” trị bách bệnh và bổ thận tráng dương, giúp kẻ vô sinh sẽ có con khỏi đi cầu tự. Loài le le trong Le le nỗi đau của mẹ và loài bìm bịp trong Bìm bịp tiếng kêu thương cũng cùng chung số phận, bị con người tiêu diệt vì cho rằng chúng là món ngon đại bổ, tăng cường sinh lực, bổ thận tráng dương. Ong đất trong Mùi thần phục cũng trở thành món thuốc ngâm rượu “ông uống bà khen” và còn bị con người bắt nuôi để phục vụ cho việc bảo vệ đường sông.
Để bắt và tận diệt các loài, con người không từ một thủ đoạn nào. Với loài chim, con người giăng lưới, bẫy bằng chim mồi hay thổi ống tiêu, phát băng nhại tiếng. Không dừng lại ở đó, con người còn lợi dụng tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng, tình phụ tử, mẫu tử ở nơi loài vật để hòng trục lợi cho mình: “Bắt đám con trước, bắt tía má nó sau….Cứ truy tìm và cố gắng bắt được con. Tía má nó, rồi sẽ tự nhiên nộp mạng” (Trần Bảo Định, 2017, tr.140). Loài ong đất thì bị con người dụ bằng mùi thần phục từ thân ngà ngọc của Chúa để tóm luôn trọn ổ cả ong thợ lẫn ong Chúa. Với loài cá, con người đã tạo thế trận “thiên la địa võng”, bủa vây lưới, đơm, đó khắp nơi. Bên cạnh đó, con người còn dựa vào quy luật lên xuống của con nước và quy luật hoạt động của các loài cá để bắt cá. Loài cá hô dù to lớn, có sức mạnh nhưng cũng không thoát nổi bàn tay của con người khi họ tìm mọi cách để tận diệt, đánh bắt cho kỳ được loài cá được cho là đặc sản: “Cứ mỗi tháng dòng họ hô tổ chức vui chơi, tình tự và đi ăn từ 4 đến 5 lần, mỗi lần lại đúng con nước ròng trong tháng: 13,17,18, 25, 27. Thế mới chết…Lần hồi, loài cá hô tuyệt chủng” (Trần Bảo Định, 2015, tr.61).
Như vậy, dưới “cái lốt” mang tên rất mỹ miều “văn hóa ẩm thực”, con người đã làm những trận càn quét muôn loài trong thế giới tự nhiên: “Ăn muôn loài, diệt muông thú”, bất luận côn trùng, rắn, rít, chó, mèo, chim chóc...còng cọc, le le, chàng bè...thồn vô miệng chơi ráo!” (Trần Bảo Định, 2017, tr.127).
Không chỉ tàn sát loài vật để thỏa mãn nhu cầu ăn uống tham lam, vô độ, con người còn bắt loài vật để thõa mãn những thú vui mà họ cho là “tao nhã”. Loài sơn ca trong Tam thanh tứ tuyệt bị con người chiếm hữu giọng hót bằng sự truy lùng ráo riết khắp nơi. Loài chim chích chòe lửa ở Lửa rừng trong tiếng hót thì bị con người lợi dụng giọng hót của nó để kinh doanh. Tàn nhẫn hơn, để thõa mãn thú vui của mình, chim còn bị con người biến thành những “võ sĩ” bất đắc dĩ trong những cuộc đấu đá, tàn sát lẫn nhau. Người “mở đấu trường cho chích chòe lửa đá nhau trối chết, nhận thưởng” (Trần Bảo Định, 2017, tr.29). Chúa tể bóng đêm cú mèo trong Cú mèo chúa tể đêm cũng cùng chung số phận khi bị con người hiểu méo mó về tiếng kêu của nó và ra sức tiêu diệt.
Bên cạnh sự tàn phá, tận diệt bằng hành động tước đi sự sống của muôn loài, con người còn có những việc làm đi ngược với quy luật, làm mất đi bản chất vốn có của các loài trong thế giới tự nhiên. Loài cà na trong Bông cà na quê nhà thì bị con người tiêu diệt bằng cách can thiệp buộc cà na ra bông ra trái theo cách duy ý chí của mình khiến bông cà na nở không còn thuận theo tự nhiên, khiến cho loài cà na thiên nhiên tuyệt chủng. Trong Vú sữa, khi thương lái phao tin đồn thổi và lùng sục tìm mua gỗ, mua gốc cây vú sữa độ năm bảy năm tuổi với giá cả cao ngất trời, con người vì tham tiền, tham cái lợi trước mắt đã không ngần ngại mà tàn phá cây vú sữa không thương tiếc bằng việc cưa chặt cây bán gỗ, bứng gốc bán rễ mà quên mất rằng đó là độ tuổi cây sung sức nhất và cho trái nhiều nhất. Còn trong Xoài mút quê tôi, con người tạo ra tình trạng thật giả lẫn lộn, xoài mút bị xoài ngoại đánh tráo tên gọi hay nhập nhằng tên gọi. Bên cạnh đó, con người đã lạm dụng thuốc trừ sâu, chất bảo quản làm cho xoài mút bị biến chất, mất đi hương vị đặc trưng. Còn loài sầu riêng trong Sầu riêng chín rụng đã bị biến chất, mất đi sự ngon ngọt và mùi hương hấp dẫn vốn có của loại trái cây được coi là “Nữ hoàng trái cây” bởi con người thu hoạch sầu riêng ngược với quy luật tự nhiên ép trái sầu riêng chín bằng hóa chất thay cho sầu riêng chín rụng tự nhiên.
Ngoài ra, con người còn tàn phá, tước đi môi trường sống của các loài trong thế giới tự nhiên. Sự tàn phá rừng không chỉ phá vỡ hệ cân bằng sinh thái mà còn phá hủy môi trường sống dẫn đến tình trạng các loài rơi vào tình trạng bị hủy diệt: “Khi rừng dừa nước biến mất, cá bống dừa bị hủy diệt” (Trần Bảo Định, 2016, tr. 46). Với các loài khác ở dưới nước như cá, tôm, còng,…cũng cùng chung số phận. Chúng bây giờ không còn được tự do bơi lội, vẫy vùng thoải mái như trước đây bởi khắp nơi đều bị con người bủa vây, giăng lưới, môi trường sống bao trùm không khí tang thương. Khi rừng rậm không còn, chim bị mất đi môi trường sống và cả nguồn thức ăn: “Rừng rậm xưa giờ đã thông quang, chim cu ngói thuở nào nay đã thành chim thành thị, chỉ thiếu vắng món ăn truyền thống của loài chim cu ngói là hạt gòn” (Trần Bảo Định, 2017, tr. 96). Chích chòe lửa thì bị con người đã tước đoạt đi môi trường sống tự nhiên, thay vào đó là cuộc sống lồng son và các món ăn ngon được chế biến từ các loại hóa chất và tắm rửa sạch sẽ. Họ ngộ nhận rằng đó là những điều nó thích mà đâu biết rằng “cái nó cần chính là những thung lũng, những rặng núi rừng phương Nam ấm áp” (Trần Bảo Định, 2017, tr. 30). Loài ba khía trong Kiếp ba khía chết vì rừng lụi tàn, bởi khi chiến tranh kết thúc, con người tàn phá rừng không thương tiếc. Ngoài việc triệt môi trường sống tự nhiên, ba khía còn bị con người còn cầm tù trong các trại nuôi nhân tạo. Còn loài chuồn chuồn trong Chuồn chuồn điểm nước cũng bị tước đi môi trường sống khi người tháo đìa bắt cá: “Mất nước, chuồn chuồn chết!” (Trần Bảo Định, 2015, tr.166). Cá bống kèo trong Con cá bống kèo quê ngoại bị thảm sát bởi những cơn mưa thuốc khai hoang, bị nhiễm chất dioxin cực độc, bị bom và đạn pháo chà đi xát lại chẳng đếm xuể bao lần trên kinh mương, bờ rạch, ao hồ.
Con người tự cho rằng mình đủ độ trí khôn và sở hữu trong tay những phát minh khoa học - công nghệ tiên tiến nhất từ đó dẫn đến thái độ coi thường môi trường sống do tự nhiên ban tặng. Con người ngông nghênh với ảo vọng thay trời đất cân bằng sinh thái, chọn con đường phát triển và từ bỏ môi trường dẫn đến việc rừng bị tàn phá nặng nề khiến cho muôn loài mất đi môi trường sống tự nhiên: “Rừng chết! Và, rừng chết, chim muông lấy chi sống?” (Trần Bảo Định, 2017, tr. 28).
Không chỉ tàn sát các loài trong thế giới tự nhiên, tiêu diệt môi trường sống của chúng, con người còn lợi dụng loài vật, bắt chúng tàn sát lẫn nhau để mình hưởng lợi. Trong Đuổi bóng, con người chất đống chà để chuột đến sống. Rắn tìm đến đống chà để tìm đến nguồn thức ăn béo bở là chuột. Con người dùng âm mưu “mượn chuột vỗ béo rắn và rắn giúp người tăng sinh lực sống, hưởng thụ “Nhất dạ đế vương” (Trần Bảo Định, 2014, tr.81). Một mũi tên bắn hai đích, người vừa bắt được chuột, vừa bắt được rắn khi dỡ đống chà khô: “Hàng chục ký rắn các loại, hàng trăm ký chuột to béo được bán những nhà hàng đặc sản chốn phồn hoa” (Trần Bảo Định, 2014, tr.81). Loài cu ngói trong Chim cu ngói Sài Côn bị con người dùng thủ đoạn tàn độc, nhẫn tâm: “Chim mồi!”. Con người lợi dụng tình yêu thương đồng loại của chim ngói để bắt chúng: “Lũ chim ngói bay ngang trời nghe tiếng bạn kêu tưởng bạn gọi đàn sà xuống mà mắc bẫy!” (Trần Bảo Định, 2017, tr. 98).
Khi nói về vấn đề sinh thái trong bối cảnh hiện nay thể hiện ở những tác phẩm văn xuôi của Trần Bảo Định trong cái nhìn đối sánh với các nhà văn đi trước, Huỳnh Như Phương đã cho rằng:
“Trần Bảo Định đụng chạm đến một vấn đề thời sự: chưa bao giờ đất nước và con người Việt Nam đứng trước nguy cơ một cuộc khủng hoảng toàn diện về môi trường sinh thái như hiện nay. Dân tộc kêu gọi văn học cất lên tiếng nói và văn học đang thăm dò con đường thể hiện nghệ thuật của tư tưởng sinh thái luận. Hẳn nhiên không phải hồi trước các nhà văn bàng quan với việc tàn phá môi trường; nhưng dù trí tưởng tượng phong phú cỡ nào, Phi Vân, Sơn Nam, Đoàn Giỏi…cũng không hình dung nổi cảnh Mê Kông sẽ là “dòng sông nghẽn mạch”, cảnh rừng mắm, rừng đước lụi tàn dưới bàn tay người, cảnh nông dân nỡ lòng chặt bỏ vườn cây vú sữa hay ép trái sầu riêng chín bằng hóa chất vì nghe theo tin đồn của thương lái” (Huỳnh Như Phương, 2018).
Với tư tưởng “nhân loại trung tâm”, con người tự coi mình là “chúa tể” của muôn loài cùng với quan niệm ích kỉ “vật dưỡng nhơn” đã ăn sâu vào trong tâm trí, con người đã quên đi tình nghĩa, quên đi những gì mà tự nhiên đem đến cho cuộc sống của mình mà thay vào đó là hành động bóc lột, tận diệt thế giới tự nhiên để thỏa mãn thói ích kỉ. Với lý lẽ “thay trời vắt đất làm mưa”, con người đã tàn phá thiên nhiên, hủy diệt môi trường sinh thái với lập luận: “Bát cơm và môi trường?”. Người ta chọn vội “bát cơm” là do căn tính “ăn xổi ở thì” mà không ý thức được rằng chính mình đang tự hất đổ đi bát cơm đó.
Khi phản ánh về mối quan hệ đối đầu giữa con người với thế giới tự nhiên, hành trình bóc lột tự nhiên của con người, Trần Bảo Định sử dụng giọng điệu phê phán như một thứ công cụ đắc lực để gửi gắm thái độ. Đó là phê phán sự thay lòng đổi dạ, quay lưng trở mặt của con người với thế giới tự nhiên. Trong Thát lát Kỳ Hôn, giọng điệu phê phán được nhà văn dùng khi nói về mặt trái của sự phát triển khoa học công nghệ, sự thúc bách phát triển kinh tế vùng Nam Bộ, con người đã tiêu diệt cá thát lát ở vàm Kỳ Hôn với tốc độ chóng mặt khiến cho loài thát lát ở vàm Kỳ Hôn không kịp trở tay.
Từ thái độ tôn trọng tự nhiên, Trần Bảo Định đã lên án các hành vi bóc lột thế giới tự nhiên theo kiểu tận diệt, làm phá vỡ cân bằng sinh thái và đồng thời đưa ra lời cảnh báo con người về các nguy cơ sinh thái. Con người đã chặn mọi đường sống của loài vật nhưng họ đâu biết rằng tự mình đang tự chặn đường sống của mình bởi: “Mới có mấy mươi năm mà cuộc sống hãi hùng. Người đã tạo ra nền văn minh và đó chính là nền văn minh hủy diệt!” (Trần Bảo Định, 2017, tr.139). Chính điều này đã gây nên mối xung đột, mâu thuẫn sâu sắc không thể dung hòa và con người phải gánh chịu sự đáp trả của tự nhiên.
7. Hành động đáp trả của tự nhiên đối với con người
“Gieo nhân nào, gặt quả nấy”! Con người gắn bó, gần gũi và bảo vệ thế giới tự nhiên, tự nhiên sẽ đáp đền bằng hoa thơm, quả ngọt, nguồn lương thực, thực phẩm đồi dào. Ngược lại, khi con người đối xử bội bạc với thế giới tự nhiên thì tự nhiên sẽ có những hành động đáp trả thích đáng. Đó là quy luật của cuộc sống. Bằng nhãn quan sinh thái, Trần Bảo Định đã quan sát và phản ánh một cách chân thực những hành động đáp trả của tự nhiên đối với con người.
Sự cuồng nộ là hành động trả thù của thiên nhiên về thái độ coi thường tự nhiên và những hành động tàn phá tự nhiên của con người. Con người phải trả giá đắt cho những thái độ và hành động của mình gây ra: “Biển cuồng nộ vì con người ứng xử tàn bạo với môi trường nên biển dùng gió gây cơn sóng đánh sạt lở đất” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 60). Trong Bạc Liêu nhãn đầu mùa, khi rừng không còn, đất đai bị xói lở, bão lũ tràn về khiến cho con người, cây cối quằn quại, oằn mình gánh chịu sự trả thù của tự nhiên:
“Bao kiếp nạn từng xảy ra trên mảnh đất non trẻ và nghèo khó nầy. Hăm mốt năm cơn bão Linda (1997) đi qua, bởi di chứng còn ở lại. Vậy mà, giờ đây bão Tembin (bão số 16) uy hiếp miền cực Nam Tổ quốc trong đó có Bạc Liêu” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 58).
Sự nổi giận của thiên nhiên khiến cho con người đứng ngồi không yên:
“Chị Hai lo lắng, chuẩn bị chạy trốn bão. Thương vườn nhãn đang gồng mình quắn quại trước cơn thịnh nộ của gió, chị khóc! Anh Hai bối rối, không biết chị khóc cho vườn nhãn hay khóc cho mình; bởi sản nghiệp bao năm vợ chồng gầy dựng rồi sẽ trắng tay” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 60).
Trước sự trả thù của tự nhiên, con người phải gánh chịu những hậu quả nặng nề và đứng trước nguy cơ rơi vào cảnh trắng tay. Vườn tược, hoa màu oằn mình, quằn quại trước sự cuồng nộ của gió bão. Sản nghiệp gầy dựng bao năm có nguy cơ bị gió bão và nước cuốn trôi. Trước sự tàn phá của thiên nhiên, con người chỉ còn biết cách chạy trốn bằng những cuộc di tản người đến nơi an toàn hòng giảm bớt đi sự thiệt hại. Trong Nắng phù sa, thiên nhiên cũng đáp trả những hành động tàn phá của con người bằng việc nổi cơn thịnh nộ khiến con người không chế ngự được: “Ghe như chiếc lá tre dập dềnh giữa dòng sông hung tợn chảy. Nước cuốn, sóng nhồi gãy mái chèo, ghe trôi mất phương hướng. Ba Được hoàn toàn bất lực” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 252). Cuối cùng, Ba Được đã ra đi, phải bỏ mạng trôi theo dòng nước dữ vì không biết lượng sức mình và không lường trước được sự hung dữ của thiên nhiên. Không chỉ vậy, thiên nhiên ngày càng khó đoán, thay đổi khôn lường: “Bão cuối năm là bão trái quy luật nó kỳ dị ở hướng đi và cường độ” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 58).
Trong Cá sặc rằn miệt thứ, Trần Bảo Định đã đưa ra lời cảnh báo, nếu con người không thay đổi nhận thức sẽ phải gánh chịu những hậu quả khôn lường do chính mình gây ra:
“Sặc rằn hoàn toàn mất hồn cốt và tính chất nòi giống, bởi sặc rằn nằm trong tay người lai tạo, nuôi bằng công nghệ và hóa chất. Và, con người lãnh trọn căn bịnh ung thư từ sản phẩm của chính mình mần ra. Có nhân có quả, có trả có vay!” (Trần Bảo Định, 2016, tr. 37).
Ở văn xuôi của Bình Nguyên Lộc, người đọc cũng đã tìm thấy ở đó những lời cảnh tỉnh qua sự trả thù của thiên nhiên đối với con người. Tiếng hú tuyệt vọng, đau đớn của người đàn bà rừng rú trong truyện Bà mọi hú vẫn còn vang vọng như để nhắc nhở con người về cách ứng xử đối với tự nhiên. Hay trong truyện Câu dầm, thông qua chuyện báo ứng hoang đường của ông Ba, tác giả đã đưa ra hậu quả thật khủng khiếp của chuyện vét sạch cá ở sông suối, ao hồ mà con người phải hứng chịu. Trong những truyện ngắn của Trần Duy Phiên, ta cũng bắt gặp những hành động đáp trả của tự nhiên đối với con người mà nổi bật là bộ ba truyện ngắn viết về côn trùng Kiến và người, Mối và người, Nhện và người. Có thể nói, ở ba tác phẩm này đã có sự đảo lộn vị trí rất ghê gớm giữa con người với các loài sinh vật bé nhỏ khi cậu Bảy trong Mối và người, Trần Việt Chiến trong Nhện và người, người đàn ông trong Kiến và người đều là những người “kì tài”, “ngựa chiến”, “không chịu thua ai” nhưng đã bị đánh bại bởi những sinh vật bé nhỏ trong thế giới tự nhiên như mối, nhện và kiến. Đồng thời, với cách đặt nhan đề tác phẩm, Trần Duy Phiên đã thể hiện thái độ tôn trọng và đề cao tự nhiên qua việc đặt “Kiến”, “Mối” và “Nhện” ngang hàng với “người”, thậm chí chúng còn được đặt ở vị trí trước con người. Còn trong văn xuôi của Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta cũng bắt gặp sự đáp trả quyết liệt của tự nhiên khi con người đối xử tệ, thiếu tôn trọng thế giới tự nhiên. Vùng đất Cà Mau ngày xưa “mỗi năm ngang tàng lấn biển vài chục mét” (Nguyễn Ngọc Tư, 2015, tr. 139) thì bây giờ ngược lại, nước mặn mỗi năm càng lấn sâu vào đất liền theo vào mùa gió chướng, len lỏi vào tận ruộng vườn làm cho cỏ cây khô héo: “Cả một dải sông khuấy vào đâu cũng tung tóe ánh sao, vậy mà làm con người cùng cỏ cây khô héo” (Nguyễn Ngọc Tư, 2015, tr. 139). Biển bây giờ không còn hiền hòa, dịu êm mà xâm lấn đất một cách hối hả, hung tợn như một đứa trẻ háo đói đang ngoạm sâu và nhai ngấu nghiến bầu vú mẹ: “Biển như một đứa trẻ đói, sau cái hồi liếm láp rìa bánh đất liền như dè sẻn, nâng niu, giờ thực sự ngoạm sâu, cắn miếng nào đáng miếng đó” (Nguyễn Ngọc Tư, 2015, tr. 137). Hay đó là tình trạng những cánh đồng, những đàn vịt, cây cỏ héo hon vì thiếu nước trong Cánh đồng bất tận.
Là một con người nhạy cảm trước những biến đổi của thế giới tự nhiên cũng như những biến đổi của xã hội, con người, văn xuôi Trần Bảo Định đã bộc bạch thái độ tình cảm qua giọng điệu xót xa, tiếc nuối, băn khoăn khi nói về những vấn đề nhức nhối trong cuộc sống, về nỗi đau đời trước sự khủng hoảng về môi trường sinh thái trước bàn tay tàn phá của con người. Giọng điệu này ta bắt gặp nhiều trong các tập Đời bọ hung, Kiếp ba khía, Phận lìm kìm, Chim phương Nam, Bông trái quê nhà. Nó góp phần bộc lộ nỗi đau đời của Trần Bảo Định khi đứng trước tình trạng thế giới tự nhiên bị tàn phá, môi trường sống bị ô nhiễm, các loài trong thế giới tự nhiên bị biến chất, thậm chí một số loài lâm vào tình trạng tuyệt chủng. Đó là sự biến mất, tuyệt chủng của các loài chim như bìm bịp, mỏ nhác, chích chòe lửa, chim khách, chim cu ngói,…để rồi những cánh chim chiều giờ đây chỉ còn trong dĩ vãng, cảnh đi lượm trứng chim, nhìn trứng chim biết giống chim, tiếng chim rừng thi nhau hót giờ chỉ còn trong cổ tích. Họa hoằn có những con mỏ nhác còn sống sót lần hồi cũng lên vỉ nướng than hoặc chui vô chảo rô ti, khìa nước dừa vàng quách. Bìm bịp tiếng kêu thương để lại trong “tôi” bao nỗi xót xa ngày trở về thăm quê: “Tôi chỉ nghe tiếng lá rơi trên thềm nhà cũ. Cầu ao, bến nước, bãi biền...còn nằm trơ đó, bìm bịp thì tuyệt chủng rồi!” (Trần Bảo Định, 2017, tr. 204). Món rượu ngâm bìm bịp “bổ thận tráng dương” đã khiến cho loài bìm bịp không còn chỗ đứng trong cõi nhân gian. Còn gì đau lòng hơn khi tiếng “bìm bịp kêu con nước lớn ròng” thi nhau hót giờ đây giờ chỉ còn trong hoài niệm.
Trần Bảo Định còn dùng giọng điệu xót xa, tiếc nuối để bộc lộ nỗi đau khi chứng kiến sự biến chất và biến mất của các loài cây trái từng làm nên danh tiếng của một vùng đất từng được mệnh danh là “vựa trái cây” của cả nước. Vú sữa đã để lại trong lòng người đọc nỗi đau đớn, băn khoăn trước tình trạng vú sữa bị bứng gốc bán, giống vú sữa thơm ngon ngày càng tuyệt giống. Còn trong Sầu riêng chín rụng, một dự báo tương lai khiến cho ta phải giật mình: “Tự dưng trong lòng Út Nhỏ dâng lên nỗi sợ. Sợ cái ngày mai sầu riêng chín rụng sẽ mất dần trên quê hương!” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 112). Trong Nắng phù sa, giọng điệu câu văn chứa đựng biết bao nỗi xót xa, tiếc nuối trước thực trạng “vật đổi sao dời” khi cây cau Lai Vung chỉ còn trong hoài niệm.
Giọng điệu xót xa còn được thốt lên khi chứng kiến tình trạng biến đổi khí hậu diễn ra với tốc độ chóng mặt, môi trường sống ngày càng bị ô nhiễm, kéo theo đó là tình trạng sạt lở đất, xâm nhập mặn đến nỗi “lục bình trên sông tàn lụi; rễ dừa, rễ rau dớn quéo le que” (Trần Bảo Định, 2016, tr. 151). Nếu trước đây con người dựa vào sông nước để mưu sinh thì giờ đây nguồn nước đen ngòm trở thành nỗi ám ảnh. Để thể hiện giọng văn tiếc nuối, xót xa, Trần Bảo Định thường dùng những câu cảm thán, từ ngữ cảm thán nghe như những tiếng thở dài não ruột. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng những câu hỏi tu từ và những tình thái từ,…để bộc lộ thái độ tình cảm, sự day dứt, băn khoăn.
Qua những trang văn được thể hiện bằng giọng điệu xót xa, tiếc nuối, băn khoăn, Trần Bảo Định đặt ra cho mỗi người chúng ta những điều đáng suy nghĩ, buộc con người phải nhìn nhận lại về thái độ, hành động, cách ứng xử của mình với thế giới tự nhiên. Phải làm gì đây để những thảm họa khôn lường không còn tiếp diễn? Đó là câu hỏi cần có câu trả lời trong thời gian nhanh nhất. Chính giọng điệu này góp phần thể hiện thái độ tình cảm, nhân sinh quan của tác giả, góp phần thể hiện vấn đề sinh thái tự nhiên.
Như vậy, bên cạnh sự hòa hợp giữa con người và thế giới tự nhiên, Trần Bảo Định đã nhìn thấy và phản ánh một cách sâu sắc mối quan hệ đối đầu mà ở đó tự nhiên và con người ở vị trí hai đầu “chiến tuyến”. Con người đã có thái độ coi thường tự nhiên, bóc lột thế giới tự nhiên bằng những hành động tận diệt mà không ý thức được rằng “nhân loại phi trung tâm”- con người chỉ là một phần của thế giới tự nhiên. Với tư tưởng “nhân loại trung tâm”, con người đã tự đặt mình ở vị trí trung tâm trong thế giới này, tự coi mình là “chúa tể muôn loài” nên đã có những hành động tàn phá, bóc lột, tận diệt thế giới tự nhiên và coi đó là việc làm hiển nhiên của kẻ có quyền sinh, quyền sát trong tay. Để trả thù kẻ “vong ơn bội nghĩa”, thế giới tự nhiên đã đáp trả lại con người bằng những cơn thịnh nộ, bằng sức mạnh vô biên mà con người không thể chế ngự. Thiên nhiên đã khiến con người phải khiếp sợ và thất bại thảm hại trước sức mạnh của mình. Đó là một cuộc chiến âm thầm, dai dẳng, chưa có hồi kết nếu như con người không thay đổi nhận thức, suy nghĩ và hành động. Với việc đưa ra những hành động đáp trả của thế giới tự nhiên đối với con người và sự thất bại của con người trước thế giới tự nhiên, Trần Bảo Định đã giải quan niệm “nhân loại trung tâm” và phản ánh sự “lệch tâm”, “tản quyền” của con người. Thay cho quan niệm xưa nay của con người tự coi mình là “chủ thể” thì ở đây tác giả đã đề cập đến “cái chết của chủ thể” từ đó đưa con người đến “chủ nghĩa nhân loại phi trung tâm” - “nhấn mạnh tính hài hòa, tính chỉnh thể của tự nhiên, duy trì quan hệ bình đẳng, thân thiện giữa con người và tự nhiên, bảo vệ tính đa dạng của sinh vật và tính đa dạng của môi trường sinh thái” (Nguyễn Thị Tịnh Thy, 2017, tr. 58). Ngòi bút của Trần Bảo Định đã hướng con người đến thái độ sống hòa hợp với tự nhiên đồng thời hạn chế những dục vọng quá lớn của con người và những suy nghĩ và hành động sai trái của họ đối với tự nhiên. Có thể nói, Trần Bảo Định đã cùng góp chung tiếng nói với những nhà văn đi trước và cũng như những nhà văn cùng thời. Ông có sự gặp gỡ họ ở tư tưởng sinh thái trong việc hướng tới gửi gắm thông điệp: Tự nhiên là một sinh thể độc lập, biết tri giác. Nếu con người hủy diệt tự nhiên, chống lại tự nhiên thì tự nhiên sẽ đáp trả quyết liệt và con người sẽ phải trả giá đắt.
8. Quan hệ giữ con người với con người.
Tìm hiểu mối quan hệ giữa con người với con người là một vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa sinh thái nhân văn. Bên cạnh việc đề cập đến mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên, Trần Bảo Định còn hướng ngòi bút của mình đến mối quan hệ giữa con người với con người trên cả hai bình diện: quan hệ đoàn kết tương hỗ và quan hệ đối đầu.
9. Con người trong quan hệ gắn kết.
Trong mối quan hệ gắn kết, con người trong văn xuôi của Trần Bảo Định là những người mang đúng bản chất con người Nam Bộ. Đó là những con người có tính cách bộc trực, lối sống mộc mạc, dân dã, trọng tình nghĩa, đoàn kết, yêu thương đùm bọc, giúp đỡ nhau những lúc khó khăn, hoạn nạn: “Họ yêu đất, yêu người. Họ thương nghèo, thương khó. Họ mang khổ, mang đau. Họ bằng lòng vui sống bao nhiêu thứ ấy, trong môi trường thiên nhiên ưu đãi những bàu, những lung, những trấp” (Trần Bảo Định, 2014, tr. 198). Họ không chỉ lo cho sự an nguy của bản thân mình, gia đình mình mà còn lo lắng của người khác, coi trọng chữ nghĩa, chữ tình giữa con người với con người, giữa người sống với người đã khuất nên khi đi tảo mộ họ không phân biệt người thân - người ngoài, họ không quan tâm kẻ nằm dưới nấm mồ vô chủ kia, lúc sống hiền lương hay gian ác bởi với họ “nghĩa tử là nghĩa tận” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 160). Lối sống tình nghĩa đã tạo nên tinh thần đoàn kết, đùm bọc giữa người với người. Vì cuộc sống mưu sinh, những người lưu dân ở miền Bắc, miền Trung phải di cư vào Nam khai khẩn đất hoang lập nghiệp. Do phong tục tập quán, nết ăn ở khác nhau nên buổi đầu không tránh khỏi những mâu thuẫn. Nhưng dần dần họ biết yêu thương, đùm bọc nhường nhịn lẫn nhau và gắn bó với nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống và bảo vệ quê hương. Chính nhờ lối sống hòa thuận, gắn bó giữa các dân tộc, cùng nhau làm ăn xây dựng quê hương, không phân biệt vùng miền, dân tộc mà sống đoàn kết tạo thành một khối thống nhất:
“Tôi lang thang trên những con đường làng, phố chợ quê chồng chị Hai. Ở đó, người Việt, người Hoa, người Khmer…chung sống hòa thuận trong một nền văn hóa hỗn dung; họ chung lưng đấu cật và trải qua biết bao gian truân khai hoang lập điền, đổ mồ hôi sôi nước mắt lẫn máu xương để cùng gìn giữ mảnh đất ven biển Đông trên ba trăm năm tuổi” (Trần Bảo Định, 2018b, tr.56).
Ở Mãng cầu xiêm ngã Năm, bà con tiểu thương ở chợ nổi ngã Năm sống với nhau bằng tình nghĩa, đối xử với nhau bằng sự nhường nhịn, cảm thông. Dù là cảnh ở chợ, nhưng ta không thấy có sự bon chen, tranh giành mà ngược lại con người đối xử với nhau chan hòa, thân ái:
“Ở đây, ai cũng sống với nhau bằng cái tình nước, cái nghĩa sông hồ. Và, nếu có va chạm thì họ nhìn nhau cười rồi chèo xuồng đi, nhường nhịn nhau vì cảm thông cùng cảnh ngộ tảo tần sớm hôm. Mần gì có chuyện rủi may, hay tranh giành mối bán?” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 178).
Từ chỗ trọng tình nghĩa, con người coi thường tiền bạc, của cải vật chất mà đối xử với nhau bằng tấm chân tình. Hai Được trong Măng cụt - trái tình yêu! không vì lợi nhuận mà đánh mất lương tâm để rồi làm những điều hại người khác. Trong việc ươm giống cây măng cụt để làm nghề kiếm sống hàng ngày, Hai Được luôn hướng tới chữ tín, vì quyền lợi của người nông dân. Điều anh trăn trở là làm sao để tạo được cây giống tốt, cây phát triển mạnh và đem lại năng suất, hiệu quả cho bà con nông dân chứ không làm ăn theo kiểu chụp giựt, lừa lọc hay “treo đầu dê bán thịt chó”.
Không chỉ trong cuộc sống thường ngày mà ngay trong cả chuyện hôn nhân đại sự của đời người, con người cũng lấy tình nghĩa làm mục đích sống, sẵn sàng vượt qua rào cản của quan niệm hôn nhân lỗi thời “môn đăng hộ đối” để đến với tình yêu: “Trải qua sóng gió thị phi, hai người thành chồng vợ sau cái đêm thành thân vượt “môn đăng hộ đối” (Trần Bảo Định, 2018b, tr.84). Khi đã nên nghĩa, vợ chồng Hai Lượng - Bảy Đặng đồng lòng, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, cùng nhau vun đắp xây dựng cuộc sống gia đình: “Vợ chồng sống cảnh nghèo, nhưng thừa tiếng cười hạnh phúc” (Trần Bảo Định, 2018b, tr.84). Trong Chó đá giữ làng, ông bà Hương giáo không coi khinh người nghèo khổ, chấp nhận gả con Hai cho thằng Năm Cẩu, một thằng “nghèo khạc ra tro, nghèo ho ra máu” cũng xuất phát từ lối sống trọng tình nghĩa.
Tình yêu thương con người, lối sống giàu tình nặng nghĩa đã tạo nên những con người cao thượng, sẵn sàng hi sinh bản thân mình vì người khác. Trong lúc khó khăn, hoạn nạn, họ sẵn sàng chấp nhận sự thiệt thòi về mình để vì cái chung, biết đoàn kết, hợp lực để tạo nên sức mạnh. Trong Măng cụt - trái tình yêu!, Hai Lượng sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình để cứu người sắp chết đuối để rồi khi “cứu sống vợ chồng, con cái người bán hàng xén trên sông, Hai Lượng đuối sức, vĩnh viễn nằm lại đáy Vàm Sả” (Trần Bảo Định, 2018b, tr.91). Trong Chó cứu chủ, bà Chín đã biết gạt đi tình riêng vì cái chung, cho con đi đánh giặc cứu nước khi chứng kiến cảnh giặc Pôn - Pốt xâm lấn biên giới Hà Tiên. Còn trong Chuyện người, tuy bỏ dạy nhưng vợ chồng Huy, Tường Vi vẫn đau đáu với nghề, vẫn sẵn sàng đem cái chữ đến với trẻ em nghèo ở vùng quê kinh tế mới qua việc mở lớp học tình thương dạy chữ. Khi chiến tranh biên giới xảy ra, mặc dù má không cho Huy đi đánh giặc Pôn - Pốt vì lý do anh đã bị đối xử bất công nhưng chứng kiến giặc xâm lấn biên thùy, tàn sát đồng bào dã man, Huy đã đứng lên chiến đấu để bảo vệ quê hương. Cuối cùng, anh đã hi sinh vì nghĩa lớn khi cùng anh chị em dân công đang cố gắng chuyển thương binh, tử sĩ về tuyến sau.
Thời bình, dù không còn cảnh lửa đạn chiến tranh nhưng vẫn còn đó biết bao điều đáng suy nghĩ. Mặc dù bất bình với chế độ mới với những bất cập nhưng bác Sáu vẫn là người có trách nhiệm với dân, với nước, bởi:
“Máu của hai người con bác Sáu, thấm chảy vào lòng đất quê nhà còn tươi rói, làm sao bác Sáu muối mặt mình được. Bác bức xúc nặng lời với ai đó, là muốn cho ai đó tốt hơn. Một phản biện cần thiết cho những ai có tấm lòng đối với đất nước” (Trần Bảo Định, 2014, tr.120).
Trong cái nhìn so sánh, ta thấy Trần Bảo Định có sự gặp gỡ với Sơn Nam và Bình Nguyên Lộc trong việc thể hiện tính cách của người Nam Bộ. Những con người trong tác phẩm của Sơn Nam và Bình Nguyên Lộc cũng mang những nét chung của con người Nam Bộ. Đó là sự bộc trực, thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy, không cầu kỳ, hoa mỹ, không giả tạo,…Trong những thời kì đầu đi khai hoang mở đất, cuộc sống con người vô cùng khó khăn, thiên nhiên khắc nghiệt, phải đối mặt với thú dữ, người dân Nam Bộ sống đoàn kết, biết yêu thương đùm bọc, đón nhận và giúp đỡ những người lưu dân khai hoang, những người sống tha phương cầu thực dù họ là ai thì vẫn được đón tiếp nồng hậu, nhiệt tình, chu đáo. Đặc biệt, trong truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc, con người dù ở trong hoàn cảnh nào thì mối quan hệ với cộng đồng người luôn được chú trọng và hướng tới. Khương trong Thèm người, thầy giáo Lầu trong truyện Rung cây dừa dù có bỏ ra đảo hoang hoặc trốn vào rừng sâu thì cuối cùng họ cũng đã tìm mọi cách đã trở lại với cuộc sống bình thường, cuộc sống với cộng đồng người.
Khi đề cập đến mối quan hệ giữa con người với con người trong quan hệ hòa hợp, giọng điệu ngợi ca được Trần Bảo Định dùng để ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn con người Nam Bộ, về cách ứng xử nhân văn, đầy tình người giữa con người với con người. Đó là những con người sống tình nghĩa, coi trọng tình làng nghĩa xóm; những con người sẵn sàng hi sinh bản thân mình vì người khác, vì lợi ích chung. Trong Phận má hồng, giọng điệu ngợi ca hướng đến Công nữ Ngọc Vạn, người đã hi sinh mình vì đất nước, vì hạnh phúc muôn dân: “Công nữ Ngọc Vạn làm được điều mà bao đấng nam nhi chắc gì làm được. Đó là, vua Chey Chetta 2 xác lập và cho phép người Việt được tự do đến đất Chân Lạp khẩn hoang, xây dựng làng xóm ở Mỗi - xuy Bà Rịa” (Trần Bảo Định, 2016, tr. 124). Đó là Đại úy Bác sĩ Nguyễn Lương Thiện trong Có những con người như thế đã hi sinh cả công danh sự nghiệp và mạng sống của mình để cứu người nữ chiến binh Việt cộng. Dù sống giữa cái ác nhưng ông vẫn nghĩ đến tình nghĩa đồng bào, biết bảo vệ lẽ phải, bảo vệ những người có lý tưởng sống cao đẹp còn mình thì chấp nhận hi sinh, chấp nhận bị bắt và chịu sự trừng phạt “bị tước quân tịch, bị cấm hành nghề bác sĩ và bị đưa ra Tòa án Quân sự Cần Thơ thuộc Vùng bốn Chiến thuật để nhận bản án hai năm tù” (Trần Bảo Định, 2014, tr. 133). Bên cạnh Đại úy - Bác sĩ Thiện, giọng điệu ngợi ca còn hướng đến dì Năm - người phụ nữ có lý tưởng sống cao đẹp, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn khi nằm trong tay kẻ thù: “Thà chết, dứt khoát không sơ hở hoặc đớn hèn, gây thiệt hại cho tổ chức” (Trần Bảo Định, 2014, tr. 127). Giọng điệu ngợi ca có tác dụng rất to lớn trong việc thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả. Nó góp phần nhân rộng, phát triển mối quan hệ giữa con người với con người trong mối quan hệ thống nhất, hòa hợp.
Nghiên cứu con người trong mối quan hệ gắn kết giữa người với người, những trang văn của Trần Bảo Định đã đưa người đọc đến với những con người có phẩm chất cao đẹp: trọng tình nghĩa, nhân hậu, thủy chung, đoàn kết, yêu thương, nhường nhịn, đùm bọc, biết hi sinh vì người khác, vì cộng đồng, vì lợi ích chung. Họ đã tôn lên giá trị của nhau, cùng nhau sống, chiến đấu, học tập, lao động để xây dựng cuộc sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
10. Con người trong quan hệ đối đầu cạnh tranh.
Cuộc sống vốn hai mặt, bên cạnh những con người sống nghĩa tình, trách nhiệm, biết yêu thương, đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau, vẫn còn đó những con người trở mặt, hèn nhát, vong ân bội nghĩa, sống bạc tình, bạc nghĩa. Dưới sự tác động của môi trường sống xã hội, sự cám dỗ của quyền lực, danh vọng, của đồng tiền, không ít người đã biến chất, trở thành những kẻ sống thực dụng, táng tận lương tâm với chính đồng loại của mình.
Trước hết, mối quan hệ đối đầu giữa con người với con người được Trần Bảo Định xây dựng qua hình ảnh của những kẻ vong ân bội nghĩa với tiền nhân, những người anh hùng đã hi sinh máu xương cho đất nước: “Có những kẻ muốn xóa quá khứ, quên xương máu tiền nhân, và ngoảnh mặt với những người đã từng nai lưng đùm bọc, nuôi giấu ông bà, cha mẹ họ khi xưa” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 219). Trong kháng chiến, dân hi sinh cả tính mạng để bảo vệ cán bộ, bảo bọc, chở che họ. Vậy mà, khi hòa bình, họ vội quên đi ân nghĩa, quên đi những tháng ngày dân đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi với những người đã sống vì mình trong kháng chiến: “Hồi còn chiến tranh, tui đào hầm nuôi mấy cha nội nầy, họ nói hay lắm, khi có quyền lực thì làm dở ẹc, tính toán thua mấy đứa con buôn” (Trần Bảo Định, 2014, tr. 108).
Bên cạnh những kẻ vong ân bội nghĩa còn có những kẻ sống bạc tình bạc nghĩa mà thầy giáo Khải trong Chữ nghĩa là một ví dụ điển hình. Giáo Khải là thầy, là người có chữ nhưng không có nghĩa, tham sang phụ khó, coi thường những người thất học, đưa tình yêu ra cân đong đo đếm như một món hàng. Cuối cùng, vì cái lợi của riêng mình mà thầy giáo Khải đã phản bội Út Nữa, phản bội lời thề chung thủy mà hai người đã từng thề nguyền với nhau sau khi đã lấy đi đời con gái của cô, khi cô bụng mang dạ chửa, mang trong mình giọt máu của Khải để chạy theo Hạnh - một cô gái con của một gia đình có điều kiện với mong muốn được đổi đời.
Bên cạnh đó, mối quan hệ đối đầu giữa con người với con người còn được tác giả thể hiện qua việc khắc họa nên những con người sống thực dụng, vì quyền lợi cá nhân, lợi ích nhóm mà tàn sát, hãm hại, lừa lọc lẫn nhau gây ra bao cảnh tang thương. Vì muốn chiếm đoạt đất đai, tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bọn giặc Pôn - Pốt đã gây ra những cuộc chiến tranh thảm sát, cướp đi mạng sống của con người. Với khẩu hiệu “đốt sạch, giết sạch”, giặc Pôn - Pốt đã gây ra những tội ác tày trời, dã man:
“Chúng bắn người tập thể, cắt cổ, đập đầu, xé trẻ em thành hai mảnh, hoặc quẳng lên không rồi giương lê đâm lòi ruột. Chúng bắt phụ nữ lột quần áo, hãm hiếp tập thể, cắt vú, lấy cây tầm vông, cọc tràm, cán búa thọc thẳng vào cửa mình cho đến chết” (Trần Bảo Định, 2014, tr. 117).
Chiến tranh đã đẩy con người vào cảnh khốn cùng nghèo khó, thất học; tàn phá thiên nhiên, vườn tược, phá hoại cuộc sống yên lành của nhân dân. Không khí tang thương bao trùm cả một vùng quê vốn thanh bình: “Mùi tử khí hòa theo tiếng khóc tiếc thương người thân. Tử thi từ tuyến trước đưa về ngày một nhiều” (Trần Bảo Định, 2015, tr. 41). Vì đất mà con người có thể tranh giành, hãm hại, đoạn tuyệt tình nghĩa với nhau như Cai tổng Chuột, Ôn Văn Bọ trong Nước đến háng rồi đó ông. Từ việc sở hữu đất, xã hội đã có sự phân chia giai cấp, sự phân chia giàu nghèo. Những kẻ đất đai nhiều trở thành những địa chủ còn những người nghèo không có một “tấc đất cắm dùi” trở thành những kẻ đi ở đợ, tá điền, đi làm thuê, “đi bạn”. Điều này chúng ta có thể thấy xuất hiện ở các tác phẩm như Nước đến háng rồi đó ông, Miếu Sáo Trâu, Chơi mà chối, Cúng Thần Nông vùng đất Hưng Điền xưa, Cá bống dừa quê,...Vì muốn mở mang đất, mở mang bờ cõi, chiếm đoạt tài nguyên,…những cuộc nội chiến tranh giành quyền lực, đất đai đã diễn ra dưới thời Tây Sơn - triều đại nhà Nguyễn. Rồi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam diễn ra vô cùng ác liệt đã gây ra biết bao nhiêu cảnh tang thương, đầu rơi máu chảy, đất đai bị cày xới mà chúng ta bắt gặp trong Miếu Trâu, Thằng Mẫm Đực, Kim Bông thần Mã, Chuyện người, Chất muối, Chó cứu chủ,…
Bên cạnh đó, còn có những con người sống thực dụng, vì đồng tiền mà bán rẻ nhân cách của mình, sống lừa lọc, hại người bằng những thủ đoạn đê hèn. Họ coi nhau như một quân bài và tìm mọi cách để lợi dụng lẫn nhau. Ông bà Thuận Tồn, cô Hạnh và Sáu Sẹo trong Chữ nghĩa là những con người như vậy:
“Sáu Sẹo giúp đỡ gia đình Hạnh việc thuế khoá, việc kiểm tra hàng hoá, việc mua bán hàng lậu qua biên giới Campuchia…mà ở miệt Hà Tiên có lạy ba đời không cũng được. Nhờ thế, ông bà Thuận Tồn ngày một phất giàu lên, mua thêm đất, tậu thêm nhà. Và qua Sáu Sẹo, Hạnh trở thành đầu mối phân phối thuốc lá lậu ở chợ, không ai dám sờ tới. Cũng qua Sáu Sẹo, ông bà Thuận Tồn quen biết thân tình nhiều cán bộ trong và ngoài huyện”. Còn Sáu Sẹo, “cái đích của Sáu Sẹo chính là Hạnh, một cô gái đẹp và có chữ” (Trần Bảo Định, 2014, tr. 18).
Bỉ ổi hơn là Sáu Sẹo dàn dựng cho vợ hắn bắt tại trận khi Hạnh đang trần truồng với hắn tại khách sạn ở ngoại ô Rạch Giá để tống tiền gia đình Hạnh. Nhưng hắn vẫn chưa chịu dừng lại ở đó. Lúc nào hắn thích thì Hạnh vẫn phải nhiệt tình và hết mình chiều chuộng vì sợ gia đình tán gia bại sản. Còn giáo Khải phản bội Út Nữa để chạy theo Hạnh nhưng Khải đâu biết rằng mình chỉ là quân bài của gia đình Hạnh, chỉ là kẻ “đổ vỏ”, giải quyết hậu quả của những cuộc ăn chơi của cô.
Bên cạnh đó, vì đồng tiền người ta sẵn sàng làm những việc trái với đạo đức, lương tâm của con người, dẫn đến việc đồng loại đầu độc lẫn nhau. Vì đồng tiền mà người ta làm cho giống sầu riêng thoái hóa, biến chất. Vì đồng tiền, vì lợi ích cá nhân mà con người làm nghề bất lương, làm trái những điều đạo lý. “Cò” xuất hiện khắp nơi, ở mọi lĩnh vực: “Cò nhà, cò đất, cò xe, cò phá thai, cò bịnh viện, cò xuất cảnh, mỗi công việc có một loại cò, chung quy gọi là cò dịch vụ!” (Trần Bảo Định, 2014, tr. 165). Ngoài ra, con người lại lừa gạt lẫn nhau bằng thủ đoạn “treo đầu dê bán thịt chó”. Khi bị rắn độc cắn, người ta đã lợi dụng lòng tin và bán cho đồng loại mình sừng tê giác nhưng thực chất là sừng trâu cò mài uống để trị ngộ độc bởi “mùi trâu cò khen khét như mùi sừng tê giác” (Trần Bảo Định, 2014, tr. 81).
Mối quan hệ đối đầu giữa người với người còn được Trần Bảo Định thể hiện qua mâu thuẫn giữa cán bộ và nhân dân. Trong Miếu Sáo Trâu, thầy Cai đã cậy quyền cậy thế ve vãn ức hiếp gái nhà lành. Năm Hợm - kẻ được gọi là cán bộ trong Chó cứu chủ thì làm việc thiếu tình người, hạch sách, nhũng nhiễu cấp dưới, nịnh nọt cấp trên bằng món cầy tơ từ con Vện - bạn trung thành của mẹ con Ốc Cao. Hắn đã dựa vào chó để tiến thân nên đã tìm mọi cách, mọi thủ đoạn để bắt con Vện của mẹ con Ốc Cao, đẩy Ốc Cao vào đường cùng phải nghỉ việc. Khi không dụ dỗ được, hắn đã dùng đến hạ sách là thuê người bắt trộm chó để nhằm thực hiện được mưu đồ đen tối của mình. Bên cạnh đó, một số cán bộ chỉ biết tham nhũng, nhận đút lót, hối lộ để rồi đổi trắng thành đen gây ra gây ra bi kịch cho những người dân lương thiện. Chú Tư Vẹn, làm Phó Trưởng ty của một ngành kiến thiết xây dựng chỉ vì lấy 10 cái vỏ bao xi măng mà chịu án tù mấy năm trời do cán bộ gieo tiếng ác: “Tại hồ sơ ghi 10 bao xi măng (thiếu chữ vỏ). Đúng là án tại hồ sơ! Và, vì án tại hồ sơ mà biết bao người lương thiện chịu biết bao oan nghiệt!” (Trần Bảo Định, 2014, tr. 63). Bên cạnh đó, còn có một số cán bộ tham lam, vì lợi ích cá nhân mà tước đi ruộng đất - phương tiện mưu sinh của nông dân gây ra sự bất bình, phẫn nộ trong nhân dân. Lời của bà Năm liệt sĩ khiến cho chúng ta cảm thấy xót xa: “Chiến tranh tui mất chồng, mất con; hòa bình tui mất ruộng. Lấy chi ăn...mà sống?” (Trần Bảo Định, 2014, tr. 74). Ngày xưa khi đánh giặc, toàn là bà con bám trụ “một tấc không đi, một ly không rời”, bỏ nhà bỏ cửa, bỏ cuốc bỏ cày, cầm súng đi đánh giặc là cốt giữ đất còn giờ đây người nông dân lại không có quyền tư hữu trên mảnh đất của mình. Cán bộ đã dựa vào lý lẽ thu hồi đất để lấy đất của dân. Từ chỗ làm mất lòng dân dẫn đến việc tiếng nói cán bộ không đến được với tai quần chúng: “Mạnh cán bộ nói, cán bộ nghe; mạnh dân ngồi, dân ngủ gục” (Trần Bảo Định, 2014, tr.69).
Trần Bảo Định đã sử dụng giọng điệu phê phán khi bàn về sự đối đầu giữa con người với con người, phê phán thái độ nhẫn tâm của con người khi có những hành động tàn độc với chính đồng loại của mình, thờ ơ, vô cảm trước sự nỗi đau của đồng loại; phê phán những con người vì đồng tiền mà làm băng hoại đi những giá trị văn hóa tốt đẹp đã được dựng xây và gìn giữ bao đời. Đó là bọn giặc ngoại xâm đã tìm mọi cách để khai thác, tận diệt tài nguyên thiên nhiên của xứ mà chúng cho rằng thuộc địa của chúng, thực hiện dã tâm bằng những hành động hết sức dã man. Giọng điệu phê phán còn hướng đến những con người trong giới tu hành vốn được coi là từ bi hỷ xả, cứu độ chúng sinh. Họ đã để cho đồng tiền làm băng hoại đi những giá trị đạo đức, làm mất đi nét đẹp của văn hóa Phật giáo đã đi vào lòng người dân đất Việt từ bao đời nay. Giọng điệu phê phán còn được Trần Bảo Định dùng khi phê phán thái độ vô ơn của con người với chính con người. Thay vì thái độ biết ơn, trân trọng thì đã có không ít những kẻ vô ơn “quay lưng ngoảnh mặt” với những người những người anh hùng đã hi sinh vì dân, vì nước; những tiền nhân đã có công đi khai khẩn đất hoang, mở cõi và cả những con người đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho họ.
Với cái nhìn toàn diện, bao quát mọi mặt của đời sống xã hội từ xưa đến nay, Trần Bảo Định đã đưa ra cái nhìn sắc sảo về thời cuộc. Những thái độ, hành động, cách ứng xử bạc tình bạc nghĩa, tham sang phụ khó, tham phú phụ bần, vô ơn bạc nghĩa, vì đồng tiền, vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm mà táng tận lương tâm sẵn sàng lừa lọc, giết hại lẫn nhau giữa con người với con người,…đã phản ánh những mặt trái trong mối quan hệ ứng xử giữa con người với con người. Từ đó, những trang văn của Trần Bảo Định có ý nghĩa gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh với tất cả chúng ta: Hãy cứu lấy nhân cách con người trước cơn lốc của đồng tiền, quyền lực và những dục vọng tầm thường.
10. Ứng xử của con người với các giá trị văn hoá
Văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong quá trình lao động sản xuất của con người từ lao động trí óc đến lao động chân tay trong môi trường tự nhiên và xã hội. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên độc đáo và khác biệt so với những con vật khác trong thế giới động vật. Vì vậy, văn hóa chính là sản phẩm của con người, là hệ quả của sự phát triển của nhân loại. Do được chi phối bởi môi trường xung quanh và đặc điểm tính cách của con người ở các tộc người khác nhau, các quốc gia khác nhau nên văn hóa của mỗi tộc người, mỗi quốc gia cũng có những nét đặc trưng riêng. Chính văn hóa đã tạo nên bản sắc của từng dân tộc, quốc gia. Thái độ ứng xử của con người với các giá trị văn hóa cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá về nhân cách, giá trị của một con người.
Thái độ ứng xử của con người với các giá trị văn hóa được Trần Bảo Định thể hiện rất rõ qua tập truyện Bóng chiều quê và rải rác ở các tác phẩm trong các tập văn xuôi khác của ông. Qua đó, người đọc cảm nhận được giá trị văn hóa đặc sắc của vùng đất Nam Bộ cùng thái độ ứng xử của con người ở cả hai mặt tích cực lẫn tiêu cực.
11. Thái độ trân trọng, giữ gìn văn hoá.
Trân trọng những giá trị văn hóa là hành vi ứng xử của con người có văn hóa. Trong văn xuôi Trần Bảo Định, thái độ trân trọng những giá trị văn hóa được thể hiện thông qua hành động, việc làm cụ thể của con người như giữ gìn đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, gìn giữ và lưu truyền những “tục hay nếp cũ”, các lễ hội văn hóa, những sản vật của quê hương,...Trần Bảo Định đã có sự am hiểu sâu sắc về đời sống văn hóa, những phong tục tập quán, những lễ hội văn hóa,…và đã phản ánh một cách thấu đáo trong những trang văn của mình.
Đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” là nét đẹp văn hóa của người Việt được gìn giữ và phát huy từ bao đời nay tạo thành một truyền thống tốt đẹp xuyên suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Trong văn xuôi Trần Bảo Định, việc giữ gìn truyền thống đạo lý này được thể hiện qua nhiều biểu hiện khác nhau. Trước hết, việc giữ gìn đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” thể hiện qua lòng biết ơn đối với những người anh hùng đã hi sinh vì dân, vì nước, những bậc tiền hiền, hậu hiền - những người tập hợp lưu dân khẩn hoang lập điền, những người bỏ công sức, tiền bạc, thời gian để lập ấp, lập đình, lập làng. Đó là cụ Tán Kế - người anh hùng đất Ba Châu trong Lễ giỗ người anh hùng đất Ba Châu đã đứng lên chiêu mộ nghĩa binh khởi nghĩa chống Pháp tại vùng Ba Châu và bị giặc hành quyết, bêu đầu tại chợ Châu Thới vào ngày 11 tháng giêng năm Kỷ Tỵ (tức ngày 21. 2.1869). Đó là Đức Thánh Trần Hưng Đạo trong Chùa ông quê tôi, người anh hùng đã có công với dân, với nước được nhân dân thờ phụng. Đó là Đốc binh Phan Ngọc Tòng - người nghĩa sĩ đất An Bình đã đứng lên chống Pháp khi chúng vừa đặt gót chân xâm lược đến quê hương Bến Tre trong Giỗ hội và lễ cầu hồn ở Gò Trụi, An Bình Đông. Đó là Thiên hộ Dương và Đốc binh Kiều, hai bậc tiền nhân vì nước quên thân đã được dân bản địa coi là “phúc thần của xứ sở” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 110) trong Rằm tháng Mười Một nhớ về Gò Tháp,…Người dân Nam Bộ đã thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của mình đối với những người anh hùng, những bậc tiền hiền, hậu hiền,…qua việc tưởng nhớ, thờ cúng, làm giỗ để bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với họ: “Năm nào cũng vậy, khi tới ngày Mười Một tháng Giêng, bà con ấp Chợ không ai rủ ai, ai đều lặng lẽ giỗ cụ tán Kế như giỗ vị thần “Vị quốc vong thân” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 213). Còn ông Hai thì “thờ cụ như thờ tổ tiên. Ông tin hồn thiêng của cụ Tán kế đã hòa vào sông nước Giồng Trôm” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 220) và ông thấy ấm lòng bởi: “Nơi cụ Tán kế sanh ra và thân xác trở về, nơi cụ thọ hình đầu lìa khỏi cổ và kẻ thù bêu thủ cấp tại chợ Châu Thới. Ngày nay, cả hai nơi đều được dân chúng tưởng nhớ lập miếu thờ” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 221).
Bên cạnh đó, việc giữ gìn đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” còn được thể hiện qua lòng biết ơn đối với tổ nghề - những người đã tạo lập và gìn giữ, lưu truyền những nghề truyền thống cho nhân dân. Từ xa xưa, trong dân gian đã lưu truyền quan niệm: “Nếu nghề không có người sáng lập, thì nghề đó chẳng thể tồn tại với thời gian” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 196). Đó là lý do hàng năm người thợ mộc Tây Ninh đều giỗ tổ nghề và xem đó là một nghĩa cử cao đẹp thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” trong đạo lý “Cơm cha, cha áo mẹ, công thầy” của người Việt nói chung và người miền Nam nói riêng” (Trần Bảo Định, 2018a, tr.196). Ngoài ra, việc gìn giữ đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” còn thể hiện qua việc giáo dục con cháu về lối sống có trước, có sau, nhớ ơn ông bà tổ tiên, nhớ ơn người trồng cây cho ta hái quả.
Thái độ trân trọng những giá trị văn hóa của người dân Nam Bộ còn được thể hiện qua việc gìn giữ và lưu truyền những “tục hay nếp cũ” của mảnh đất này. “Tục hay nếp cũ” là những tục lệ, nếp sống làm nên nét đẹp của văn hóa dân tộc. Việc gìn giữ và lưu truyền nó là việc làm cần thiết, cấp bách để thế hệ sau hiểu được những nét đẹp văn hóa của địa phương, vùng miền và nói rộng ra là của dân tộc. Điều này thể hiện rõ trong tập Bóng chiều quê của Trần Bảo Định:
“Với tập truyện ngắn Bóng chiều quê, ta lại bắt gặp những nét chấm phá riêng, một thể tài mới đáng quý của cây bút cao niên khi truyền tài “tục hay nếp cũ” trên mảnh đất chín rồng. Viết về phong tục Nam Bộ thông qua văn chương, đó là thứ “ẩm thực” dễ “ăn”, dễ ngấm” (Trần Bảo Định, 2018a, tr.10).
Với tập Bóng chiều quê, Trần Bảo Định đã đưa người đọc đến với một số tục lệ như tục “gái đưa” ở làng Bình Cách, hoạt động tâm linh “xác căn” nơi xứ lụa Tân Châu, tu thiếp ở Sóc Trăng, tục cúng Thần Nông ở vùng đất Hưng Điền, tục tống ôn binh ở vùng đất Hòa Đồng, tục thờ cúng ông Tà ở Cà Mau, tục coi chân gà đoán vận nhà trong năm, tục niêm ấn ngày hai lăm tháng Chạp ở làng An Vĩnh Ngãi, tục cúng đình ở Thới Bình, tục thờ Bà Cậu ở làng Thanh Vĩnh Đông, tục “chôn nhau cắt rún” ở Vĩnh Kim - Tiền Giang, tục chôn chó đá ở làng An Vĩnh Ngãi, tục cúng xuống đồng, tục cúng tam sanh - giải hạn tam tai ở đất Bông Sao,…Điểm qua những “tục hay nếp cũ”, ta cảm nhận được sự phong phú, đa dạng của văn hóa vùng đất phương Nam. Mỗi tục lệ có một ý nghĩa riêng, thời gian cúng, lễ vật cúng và cách thờ cúng riêng tạo nên màu sắc đa dạng cho nền văn hóa của vùng đất Nam Bộ. Trong phạm vi bài nghiên cứu, chúng tôi xin giới thiệu một số “tục hay nếp cũ” làm nên nét văn hóa đặc trưng của vùng đất này cũng như ý thức giữ gìn những nét đẹp văn hóa cổ truyền của người dân nơi đây.
Tục tảo mộ là nét đẹp văn hóa có từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam. Vào dịp này, những người thân đến mộ tổ tiên, ông bà, cha mẹ để nhổ cỏ dại, sửa sang, tu bổ cho ngôi mộ khang trang hơn. Tục tảo mộ có ý nghĩa hết sức thiêng liêng, thể hiện tấm lòng thành kính, tưởng nhớ, biết ơn của con cháu đối với ông bà tổ tiên, đồng thời thể hiện lối sống nghĩa tình của người sống đối với người đã khuất. Đồng thời, tảo mộ cũng là dịp con người gắn kết với nhau - “tảo mộ người chết, gắn kết người sống”: “Người đi tảo mộ nói cười rôm rả, hú hì giúp nhau công việc bồi đất đắp mộ khang trang. Xong việc, họ xúm lại cùng nhậu hoặc ăn miếng ăn “ân tình” làng xóm” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 161). Ngày tảo mộ được xem như ngày hội của dân làng hướng về những người đã khuất với tấm lòng thành tâm tưởng nhớ làm cho người nằm dưới đất cảm thấy ấm lòng.
Việt Nam là một nước nông nghiệp gắn với nền văn minh lúa nước nên ở vùng đất Nam Bộ đã có những “tục hay nếp cũ” liên quan đến nông nghiệp như tục Tết Trâu, tục thờ cúng thần Nông, tục cúng xuống đồng, tục cầu mưa, tục cúng Trăng,…với ước mong mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu, dân tình no ấm, yên vui. Thần Nông là một vị thần đã đi sâu vào trong tâm thức cũng như đời sống sinh hoạt tín ngưỡng của người nông dân. Trong Cúng Thần Nông vùng đất Hưng Điền xưa, tục thờ cúng Thần Nông là một nét đẹp trong văn hóa của người dân miệt Hưng Điền nhằm thể hiện lòng biết ơn đối với Thần Nông - vị thần đã cho họ cái ăn. Giữa Thần và người còn có mối đồng cảm: “Thần Nông thấu cảm niềm vui, nỗi buồn. Thần Nông với họ gần gũi nhau, cái mà địa chủ không thể nào có” (Trần Bảo Định, 2018a, tr.42). Bên cạnh Thần Nông, con trâu vốn là con vật gắn bó với người nông dân, được coi là “đầu cơ nghiệp”. Với người nông dân làng Long Trì trong Tết Trâu ở Long Trì thì không những coi “con trâu là đầu cơ nghiệp” mà còn hơn thế nữa, họ coi con trâu là bạn và thậm chí còn hơn cả bạn. Vì vậy, tục Tết Trâu mà theo cách nói thông thường của người dân sở tại là cúng ông Chuồng bà Chuồng được xem là một tục lệ quan trọng. Tục Tết Trâu được tổ chức với “mong muốn “yên nhà yên cửa” của đám trâu đụt mưa tránh nắng” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 94).
Đồng bằng sông Cửu Long có cảnh quan sông nước với hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt tạo nên một vùng văn hóa sông nước độc đáo. Sông nước không chỉ gắn bó với cuộc sống mưu sinh mà còn ăn sâu vào tâm hồn, tính cách con người Nam Bộ và trở thành một yếu tố cấu thành đặc trưng của văn hóa nơi đây. Đồng thời cũng từ đó mà hình thành nên những nghề độc đáo gắn với đặc trưng vùng sông nước như nghề buôn bán trên sông ở những chợ nổi, nghề bán vàm, nghề chài lưới, đánh bắt thủy hải sản,…Với những người dân sống bằng nghề chài lưới trên sông nước thì Bà Cậu, cá Ông - Ông Nam Hải được xem là chỗ dựa tinh thần vững chắc có thể phù trợ, cứu giúp họ trong mọi lúc, mọi nơi đặc biệt là trong những tình thế nguy nan nhất. Tục thờ Bà Cậu, Ông Nam Hải đã ra đời nhằm thể hiện lòng biết ơn của những người ngư dân đối với những người đã cứu giúp và phù trợ cho họ trong những lúc khó khăn, hoạn nạn. Trong “Lên nề” ghe, hình ảnh Bà Cậu đã ăn sâu tâm thức và thành tín ngưỡng dân gian miền sông nước của người dân xóm chài và tục thờ Bà Cậu đã trở thành một nét đẹp văn hóa. Sở dĩ người dân tổ chức cúng Bà Cậu trong mỗi chuyến đi về, trong những chuyến giao thương bởi trong tâm thức của họ, Bà Cậu rất hiển linh, luôn hiện lên giúp đỡ bà con ngư dân khi bị nạn. Điều này đã được kiểm chứng bằng những câu chuyện thực tế qua những nhân chứng sống: “Rồi, má kể chuyện “Bà Cậu” linh ứng cứu giúp hàng chục chiếc ghe chài bị ở vịnh Miếu ông Bần Qùy, ở ngã Thất Kỳ Giang” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 146). Và theo lời của tía kể với má, chính tía cũng đã được Bà Cậu cứu thoát khỏi cái án tử thần vào cái đêm gió to sóng lớn. Còn trong Sông Đốc - Lễ hội Nghinh Ông, cá Ông hay còn gọi là Ông Nam Hải đã đi sâu vào trong đời sống cư dân vùng sông Đốc. Theo tín ngưỡng của người dân nơi đây, cá Ông - Ông Nam Hải là sự hóa thân hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát: “Cá Ông còn gọi là cá Voi, vốn là Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thân thành Ông Nam Hải để cứu nạn cứu khổ cho người đi biển” (Trần Bảo Định, 2018a, tr.74). Vì vậy, hàng năm người dân thị trấn sông Đốc tổ chức Lễ hội Nghinh Ông vào các ngày 14,15,16 tháng 2 âm lịch, trong đó ngày Rằm là ngày chính lễ được thực hiện với nghi thức trang trọng để thể hiện lòng biết ơn của người dân đối với Ông Nam Hải.
Tình yêu quê hương đất nước cũng là nét đẹp tâm hồn của người dân Việt thể hiện tình cảm gắn bó với quê hương. Không phải ngẫu nhiên mà người Việt gọi nơi mình sinh ra là nơi “chôn nhau cắt rốn”. Tục “chôn nhau cắt rốn” là tục lệ đã có từ bao đời nay, được xem là một nét đẹp văn hóa đi sâu vào tiềm thức và tâm trí của người dân Vĩnh Kim và được xem như là “một quy ước bất thành văn”:
“Con gái lấy chồng, chuẩn bị sinh con so đầu lòng, mẹ đẻ rước về cho con khai hoa nở nhụy và nuôi dưỡng”. Đương nhiên, nhau thai và cuống rún rụng của đứa con so đó, được chôn sâu trong lòng đất quê mẹ. Đây là điều tạo nên sự kỳ diệu mà trên trái đất nầy, không phải nơi nào cũng có” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 156).
Vì ý nghĩa thiêng liêng đó mà con người khi xa quê, dù có đi đâu, về đâu người ta cũng không thể quên nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình. Vì vậy, tục “chôn nhau cắt rốn” được xem như là sợi dây vô hình thể hiện tình cảm gắn bó với quê hương. Ở đây, ta thấy có điểm gặp gỡ giữa Trần Bảo Định với Bình Nguyên Lộc. Đặc điểm nổi bật trong các tác phẩm của Bình Nguyên Lộc là tình đất, tình quê hương được khai thác qua góc nhìn văn hoá, lịch sử. Tình yêu đó được ông gửi gắm qua các tập Mưa thu nhớ tằm, Tình đất, Cuống rún chưa lìa, Nhốt Gió...viết về những con người với tình yêu tha thiết với quê hương, nơi “chôn nhau cắt rốn”, sống không thể rời mảnh đất tổ tiên, quê nhà. Theo Bình Nguyên Lộc, con người không thể quên cội nguồn, dù sống xa cách nơi sinh ra, thì vẫn gắn liền với quê hương, như cuống rún không thể lìa đất mẹ.
Bên cạnh việc gìn giữ và lưu truyền các “tục hay nếp cũ”, người dân Nam Bộ còn có ý thức gìn giữ và lưu truyền các lễ hội văn hóa. Trong văn xuôi Trần Bảo Định, chúng tôi thấy có sự xuất hiện của các lễ hội như lễ hội truyền thống Phước Biển huyện Vĩnh Châu tỉnh Sóc Trăng, lễ hội Nghinh Ông ở sông Đốc, Giỗ hội và lễ cầu hồn ở Gò Trụi, An Bình Đông (Ba Tri - Bến Tre), Giỗ hội và lễ cầu hồn ở Gò Trụi, An Bình Đông (Ba Tri - Bến Tre), Giỗ tổ nghề mộc xứ Chuồng Voi (Tây Ninh), Lễ giỗ anh hùng đất Ba Châu (Bến Tre), lễ Cúng Trăng ở Sóc Trăng,…Những lễ hội truyền thống này vừa mang ý nghĩa tâm linh thể hiện lòng biết ơn với các vị thần, những người anh hùng, những bậc tiền hiền, hậu hiền có công với dân, với nước đồng thời nó còn là hoạt động ý nghĩa nhằm gắn kết mọi người.
Ở điểm này, chúng tôi nhận thấy Trần Bảo Định có sự gặp gỡ với Sơn Nam. Sinh ra, lớn lên ở trong rừng rậm U Minh với muôn vàn cỏ cây, hoa lá, chim muông từ những ngày vùng đất này mới khai hoang, Sơn Nam sống gần gũi thiên nhiên, với những gia đình của người Việt, Khmer, và Hoa nơi miền đất mới. Được coi kho lưu trữ bảo tồn những giá trị văn hóa dân tộc của vùng đất phương Nam, ngòi bút của Sơn Nam đã làm sống lại một cách sinh động nhiều mặt đời sống quá khứ vài trăm năm trước của vùng đất này qua những phong tục tập quán, lời ăn tiếng nói của người dân địa phương. Ông tường tận nhiều phong tục, tập quán, lễ hội của người Kinh, Hoa, Khmer như: Tết cổ truyền, lễ cúng trăng, đua ghe ngo, ngày bổ tróc, giỗ ông bà, cúng thần thánh,...và phản ánh nó một cách chân thực qua những trang văn của mình.
Những những món ăn truyền thống, những sản vật quê hương,…cũng chính là những yếu tố làm nên nét đặc trưng văn hóa của từng vùng miền. Việc gìn giữ và lưu truyền những món ăn truyền thống, những sản vật của quê hương là biểu hiện của tình yêu quê hương đất nước, thể hiện thái độ trân trọng những giá trị văn hóa của con người. Với cái nhìn toàn diện, đa chiều, sâu sắc, Trần Bảo Định đã đi sâu khai thác đời sống văn hóa, tinh thần của người dân Nam Bộ thông qua ẩm thực. Người dân Nam Bộ sống tình nghĩa, “có trước có sau” vì thế những món ăn cúng thần linh không chỉ đơn thuần là món ăn mà mang ý nghĩa biểu tượng, chứ đựng triết lý nhân sinh và thể hiện đạo lý, cách sống ở đời. Thần Nông là vị thần gắn với đời sống của cư dân nông nghiệp nên món ăn cúng Thần Nông cũng là món ăn dân dã, gần gũi với cuộc sống của người dân vùng thôn quê:
“Mâm cơm cúng món chi thì cúng, nhưng buộc phải có món cá lóc nướng trui đốt bằng lửa rơm. Thịt cá lóc trui trắng phếu khi vẽ ra ra từng lọn. Rồi từng lọn đó, được cuốn lại bằng lá sen non và lăn qua, trở lại trên vỉ than hồng... Mùi thôn dã chưn quê bay lừng trời đất!” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 43).
Trong “Lên nề” ghe, lễ vật “Lên nề” cúng Bà cậu không thể thiếu món vịt nấu cháo bởi lẽ: “Con vịt biểu tượng “nước đổ đầu vịt” tương đồng với “nước đổ lá môn”, nghĩa là chẳng thèm nghe những lời nói ngả nói nghiêng, chỉ một mực bơi lội, di chuyển “xuôi chèo mát mái” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 144). Hay lễ vật cúng tam sênh giải hạn tam tai phải có trứng vịt luộc, tôm nướng và miếng thịt heo ba chỉ luộc bởi ba món ăn này chứa đựng ý nghĩa sâu xa thể hiện sự gắn kết của thế giới tự nhiên: “Trứng tượng trưng cho loài bay lên trời. Tôm biểu tượng cho loài sống dưới nước và heo khẳng định loài sống mặt đất. Ba loài hợp lại, dân gian gọi: Thiên, Địa, Nhân” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 64) bởi ông bà mình cho rằng: “Thiên Địa Nhân hòa, Càn Khôn hanh thông” (Trần Bảo Định, 2018a, tr. 64) thì mọi sự yên ổn!. Bên cạnh những món ăn cúng thần linh, các món ăn dân dã mang đậm hồn quê cũng góp phần làm nên nét văn hóa đặc trưng - văn hóa ẩm thực. Những loài cây trái, sản vật quê hương cũng chính là những yếu tố làm nên nét đặc trưng văn hóa của từng vùng miền. Việc gìn giữ những sản vật đó cũng là một trong những biểu hiện của việc trân trọng các giá trị văn hóa. Trong Nắng phù sa, vùng đất Lai Vung cau nhiều vô số kể và rất nổi tiếng. Chính loài cau tạo nên cho vùng đất này tên gọi Lai Vung bởi “Lai Vung, là “cau chín khô trên cây” mà người Khmer gọi là Sla tamvun, đã “chín” từ buổi người mình chưn chưa bước tới” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 237). Trong Sầu riêng chín rụng, tình yêu cây, yêu nghề đã được cậu Năm đã trân trọng nghề gia truyền của cha ông để lại và tìm cách phát huy để nghề nhân giống sầu riêng phát triển: “Sáu Lĩa thừa hưởng “cha truyền con nối” nghề nhơn giống, và trồng sầu riêng ở người cha đã thành danh “Tám Sầu Riêng” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 102). Tình yêu đối với cây sầu riêng, tình yêu nghề của cậu gắn liền với việc cậu ra sức cố giữ vườn sầu riêng của cậu chín rụng theo lẽ tự nhiên và căn dặn đứa cháu của mình phải hết sức gìn giữ, chăm sóc khu vườn sầu riêng mấy đời tổ tiên để lại, đừng vì cái lợi trước mắt mà đánh mất lương tâm con người và hủy hoại giống nòi sầu riêng, sản vật làm nên tên tuổi của một vùng đất.
Bên cạnh loài sầu riêng, vạn thọ trong Bông vạn thọ cũng là loài hoa có ý nghĩa đặc biệt, gắn liền với nét đẹp văn hóa làng Mỹ Thiện. Bông vạn thọ gắn với đời sống tín ngưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng, tạo nên nét văn hóa mang đậm bản sắc vùng miền: “Người dùng bông chưng cúng chư Phật, thánh, thần; tổ tiên, ông bà…ngày rằm, ba mươi, mồng một trong tháng; giỗ chạp và ngày Tết” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 16) bởi ý nghĩa sâu xa của nó: “Vạn thọ biểu tượng trường tồn, vĩnh cửu… và, nếu nói theo phương ngữ kinh rạch đồng bằng sông Cửu Long là: “Thọ mút mùa lệ thủy!”” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 14). Nghề trồng bông vạn thọ không chỉ đơn thuần là nghề kiếm sống mà nó được xem là một nét đẹp làm nên nét văn hóa riêng của làng Mỹ Thiện bởi nó có từ lâu đời và bông vạn thọ Mỹ Thiện đã trở thành một thương hiệu nổi tiếng gần xa. Đến mùa thu làng hoa dập dìu, tấp nập người đến mua hoa để cúng và cầu trường thọ tạo nên một khung cảnh đẹp không dễ gì có được. Giữ gìn nghề trồng bông vạn thọ là việc làm lưu giữ nét đẹp văn hóa của con người vùng đất này. Còn trong Nắng phù sa, cây cau được coi là một biểu tượng của quê nhà, là hình ảnh gợi nhớ mỗi khi xa quê nhớ nhà: “Hồi tản cư, chiều chiều chốn quê người, hễ mỗi lần thấy cây cau là tui lại nhớ nhà, nhớ quê khôn xiết!” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 238). Với sự trân trọng những giá trị văn hóa của quê hương, sản vật của quê hương, bà Út kể vanh vách tên các loại cau mặc dù cây cau bây giờ chỉ còn trong hoài niệm. Cau không chỉ đi vào trong tâm trí người dân mà tên gọi về các loại cau còn gắn liền với đời sống văn hóa tinh thần của người dân Lai Vung: “Ngoài chợ Lai Vung, mỗi dịp Tết người ta chơi lô tô đọc hiểu về cây trái cau um trời đất!” (Trần Bảo Định, 2018b, tr. 241).
Ở đây, ta thấy có sự gặp gỡ của Trần Bảo Định và Bình Nguyên Lộc trong việc thể hiện thái độ trân trọng những giá trị văn hóa qua những món ăn, sản vật, hình ảnh, mùi vị,…mang đậm dấu ấn quê hương. Thái độ trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc được Bình Nguyên Lộc gửi gắm thông qua việc xây dựng những con người có tình yêu, sự gắn bó sâu đậm với quê hương. Dù đi xa quê, sống ở môi trường thành phố hay ở nơi xứ người nhưng họ vẫn nhớ về quê hương xứ sở, về cội nguồn qua những hình ảnh, âm thanh, mùi vị, những món ăn,…mang đậm linh hồn quê hương. Đó là hình ảnh con ốc gạo trong truyện Con Tám cù lần, là hình ảnh của ao rau muống, rau ngò, rau ôm, rau răm hiếm hoi trên đất Pháp trong Căn bệnh bí mật của nàng, là hình ảnh ngọn lửa trong Lửa Tết, đó là mùi đất trong Thèm mùi đất, là mùi mắm kho trong truyện Đất không chết,...Đó còn là âm thanh của tiếng hát cải lương, giọng hò trên sông. Tất cả đều góp phần gợi lên nỗi nhớ quê hương, làm khắc khoải lòng người xa quê, xa xứ.
Tóm lại, những “tục hay nếp cũ”, những lễ hội truyền thống, những nghề truyền thống, những món ăn, sản vật,…đã tạo ra những giá trị trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Nam Bộ nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Việc đưa những yếu tố đó vào trong những trang văn của mình, Trần Bảo Định hướng con người đến thái độ trân trọng, nâng cao ý thức giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa của vùng đất Nam Bộ nói riêng và văn hóa dân tộc nói chung. Điều đó góp phần khẳng định lòng yêu nước, tự hào dân tộc cũng như khẳng định giá trị văn hóa trước những biến thiên của cuộc đời.
12. Sự chối bỏ, phá huỷ các giá trị truyền thống.
Mặc dù những “tục hay nếp cũ”, những lễ hội văn hóa, những sản vật quê hương,…là những nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. Tuy nhiên, cùng với dòng chảy thời gian và sự tác động của cơ chế thị trường và sức mạnh của đồng tiền đã dẫn đến sự thay đổi của lòng người. Những “tục hay nếp cũ”, những lễ hội văn hóa đã từng làm nên văn hóa của một vùng đất cũng đang dần bị mai một, thậm chí mất dần. Điều này đã được Trần Bảo Định thể hiện qua những trang văn chất chứa những băn khoăn, trăn trở.
Trong Cúng thần Nông vùng đất Hưng Điền xưa, cuộc sống dần thay đổi, vùng đất Hưng Điền xưa nay “thắm da đỏ thịt” với đầy đủ cơ sở vật chất, hạ tầng cơ sở Trường - Trạm - Đường - Điện, mạng lưới Internet đã về đến tận nơi “thôn cùng xóm vắng”. Thế nhưng, nét đẹp văn hóa của vùng đất Hưng Điền xưa cũng theo đó mà mất dần theo thời gian: “Sau hòa bình, tục hay lệ cũ cúng Thần Nông ở miệt Hưng Điền nhạt dần rồi mất hẳn” (Trần Bảo Định, 2018a, tr.45) để lại trong lòng người nỗi tiếc nuối khôn nguôi. Hay trong Tết Trâu ở Long Trì, theo biến động của thời cuộc và cuộc sống tất bật với cơm áo gạo tiền, những miếu nhỏ thờ Trâu cũng dần mai một và mất dần theo thời gian.
Bên cạnh sự mai một, biến mất của các giá trị văn hóa, còn có những hành động, việc làm trái với nếp sống văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Trong Chùa ông quê tôi, chùa là chốn tâm linh, là nơi hết sức linh thiêng nhưng lại có những kẻ tham lam, lợi dụng chùa để làm những điều bất nghĩa. Công tác đi tìm mộ liệt sĩ là một việc làm cần thiết thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Điều này thể hiện lòng biết ơn với các bậc anh hùng, những người đã hi sinh cả máu xương vì nền độc lập tự do của Tổ quốc. Vậy mà trong Chuyện đời lại có những người sống lại xem nhẹ việc tìm hài cốt liệt sĩ. Còn trong Chó cứu chủ, Năm Hợm đã có thái độ và câu nói thể hiện sự vong ơn bội nghĩa với các anh hùng liệt sĩ. Khi Ốc Cao không nộp chó, hắn đã trợn mắt và quát: “Mầy dám ngon với tau? Mầy ỷ cái thằng tía mầy liệt sĩ hả? Đã vào tay chủ nhiệm nầy, liệt tổ cũng tiêu đời chớ đừng nói là liệt sĩ!” (Trần Bảo Định, 2014, tr. 173). Những hành động, việc làm và lời nói của hắn như loài cầm thú, sống bạc nghĩa, vô ơn.
Trong Bông vạn thọ, bên cạnh những người có ý thức giữ gìn nét đẹp văn hóa của nghề trồng vạn thọ ở làng Mỹ Thiện vẫn có những người vì quyền lợi cá nhân, vì đồng tiền mà đánh mất đi nét đẹp của một nghề truyền thống, mất đi nét đẹp văn hóa của quê hương khi làm biến chất vẻ đẹp của một loài hoa đã từng làm nên “thương hiệu” sản vật của một vùng quê khi không xuống giống mà trồng kiểu tách chồi, vì tách chồi vạn thọ mau trổ bông.
Thời bình, sự thay đổi của điều kiện kinh tế xã hội, bên cạnh những mặt tích cực còn kéo theo đó là biết bao hệ lụy. Đồng tiền làm cho xã hội điên đảo, sự thay đổi của tình người, con người chạy theo lối sống thực dụng, phù phiếm. Giờ đây, nông thôn mất dần đi sự yên bình, mất đi nét đẹp văn hóa mà thay vào đó là sự xuất hiện của tệ nạn xã hội:
“Lần đầu xóm Mù U có xì ke, cờ bạc, trộm cắp, phim sex, và nhứt là mong được đi hợp tác lao động ở xứ người, mong khách lạ lựa chọn con gái mình để gả đi Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc...Dòng tộc rạn nứt, gia đình ly tán do tranh giành ruộng đất và đã có máu đổ, đồng thời người cùng máu mủ kéo nhau ra tòa. Tình nghĩa được cân đong đo đếm bằng tiền!” (Trần Bảo Định, 2014, tr. 70).
Cùng là một nhà văn đương đại giống Trần Bảo Định, Nguyễn Ngọc Tư là một cây bút tích cực trong phản ánh sức mạnh của đồng tiền làm mờ lương tâm con người, làm mất mát nhiều giá trị tinh thần, nét đẹp văn hóa của dân tộc. Sự tác động của quá trình đô thị hóa và sự phát triển du lịch đã làm phá vỡ cảnh quan thiên nhiên, môi trường sống của con người. Trong Áo rách và nắm bụi, dự án “Du lịch sinh thái” đã cướp đi vùng biển của người dân khi không cho họ được tiếp cận với không gian mình đã từng sống và đã từng thuộc về mình. Chỉ còn lại mây mù cũng xảy ra những điều tương tự khi những người dân lao động ở Tam Đảo bị trục xuất, xua đuổi xuống dưới chân núi để lấy không gian sống từng là của họ để phát triển du lịch, đẩy một ông già bảy mươi tuổi phải cắp thùng nước đá đi về gần hai mươi cây số để kiếm sống. Với Sông, Nguyễn Ngọc Tư lại đem đến cái nhìn mới khi xây dựng nên một thị trấn với cái tên mỹ miều Lệ Kiều hoàn hảo một cách nghẹt thở từ cảnh quan đến con người. Tất cả đều mang một vẻ đẹp như “một viên ngọc không tì vết” để che đậy đằng sau nó là cuộc sống nghèo nàn thậm chí là nghiệt ngã của những người dân nơi đây. Chính đồng tiền đã tạo ra thứ văn hóa giả tạo, đẩy con người đến chỗ bóc lột con người, đẩy đồng loại của mình vào đường cùng.
Tuy nhiên, khác với Nguyễn Ngọc Tư, điểm riêng của Trần Bảo Định khi phản ánh thái độ của con người đối với các giá trị văn hóa chủ yếu đi sâu vào sự thay đổi của con người bản địa khi bị đồng tiền cám dỗ để rồi chính họ làm mất đi những nét đẹp văn hóa gắn liền với cuộc sống của họ từ bao đời.
Trần Bảo Định đã khiến chúng ta không khỏi băn khoăn và cảm thấy đau đớn, xót xa khi chứng kiến những giá trị văn hóa làm nên bản sắc văn hóa địa phương, dân tộc đang bị mai một dần và có nguy cơ biến mất khỏi cuộc sống. Phải làm gì để bảo vệ, giữ gìn và phát huy những nét văn hóa đặc sắc của địa phương, vùng miền, dân tộc là câu hỏi lớn cần có lời giải đáp bằng thái độ, bằng những hành động và việc làm của không chỉ riêng ai.
Ở góc độ sinh thái nhân văn, văn xuôi của Trần Bảo Định lại đưa người đọc tìm đến với mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên, mối quan hệ giữa con người với con người trên cả hai phương diện hòa hợp và đối đầu để thấy được sự gắn bó mật thiết, cùng nhau cộng tác giữa con người và tự nhiên, giữa con người với con người, thấy được mặt trái của cả hai mối quan hệ đó cũng như những hậu quả mà nó mang lại.
Bên cạnh đó, Trần Bảo Định cũng đã phản ánh được thái độ ứng xử của con người với những giá trị văn hóa, yếu tố làm nên hồn cốt của dân tộc. Từ việc khai thác về các mối quan hệ trên, vấn đề mà tác giả đặt ra chính là hướng con người đến thái độ, hành động, cách ứng xử hợp tình, hợp lý, mang đậm chất nhân văn sao cho con người hòa hợp, gần gũi, chan hòa với thế giới tự nhiên, chan hòa trong cuộc sống với đồng loại và biết trân trọng, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa tinh thần - một khía cạnh không thể thiếu làm nên giá trị cuộc sống và giá trị con người.
*
Trần Bảo Định là “nhà văn trẻ” mới xuất hiện trên văn đàn nhưng những gì ông đem lại cho nền văn học sinh thái Việt Nam nói riêng và nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung không hề nhỏ. Trong bối cảnh khủng hoảng môi trường sinh thái đang diễn ra toàn cầu mà trong đó Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề thì những trang văn mang đậm cảm quan sinh thái của Trần Bảo Định càng trở nên ý nghĩa, mang đậm tính thời sự, đáp ứng được nhu cầu bức thiết của cuộc sống. Nó như một hồi chuông cảnh tỉnh phát lên tín hiệu S.O.S kêu cứu cho môi trường sinh thái đang bị xuống cấp một cách nhanh chóng và trầm trọng. Sự xuất hiện của Trần Bảo Định trên văn đàn Việt Nam làm cho “bức tranh” văn học hiện đại nói chung và “bức tranh” văn học sinh thái nói riêng có thêm những nét chấm phá mới, trở nên sống động, đa sắc màu. Không chỉ mang đậm dấu ấn sinh thái tự nhiên mà Văn xuôi Trần Bảo Định còn mang đậm dấu ấn của sinh thái nhân văn, phản ánh mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên, quan hệ giữa con người với con người và con người với những giá trị văn hóa trên cả hai phương diện hòa hợp và đối đầu. Từ đó, nhà văn hướng con người đến tư tưởng “sinh thái trung tâm”, sống hòa hợp với tự nhiên, có những hành động thiết thực bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo vệ “ngôi nhà chung” của nhân loại. Bên cạnh đó, nhà văn còn ca ngợi, khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ biết yêu thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên, sống hòa hợp, gắn bó yêu thương con người và trân trọng những giá trị văn hóa bao đời của cha ông để lại cũng như lên án, phê phán những con người có thái độ, hành động không đúng trong mối quan hệ ứng xử với thế giới tự nhiên, với đồng loại và với các giá trị văn hóa.
Văn xuôi Trần Bảo Định đã thực hiện một cách xuất sắc những chức năng mà văn học giao phó, đem lại những giá trị to lớn như giá trị nhận thức, giá trị giáo dục và giá trị thẩm mĩ, hướng con người đến lối sống đẹp, có ý thức trách nhiệm với môi trường, với cuộc sống, với xã hội và với chính bản thân mình. Từ góc độ tiếp cận của phê bình sinh thái trên cả hai phương diện sinh thái tự nhiên và sinh thái nhân văn, văn xuôi Trần Bảo Định mang hơi thở của cuộc sống hiện đại; là chiếc cầu nối, là sợi dây thắt chặt văn chương với cuộc sống con người đồng thời khẳng định sứ mệnh cao cả của văn chương trong dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại.
Không chỉ có giá trị và đóng góp ở phương diện nội dung, văn xuôi Trần Bảo Định đã có những đóng góp to lớn ở phương diện nghệ thuật. Tác giả đã xây dựng được không gian đa chiều, sự đa thanh trong giọng điệu và tạo nên được lối viết hỗn dung, đan xen giữa thể loại truyện và ký, kết hợp nhuần nhuyễn những tư liệu kiến thức của các lĩnh vực địa lý, lịch sử, sinh học, văn học dân gian, văn học viết; kết hợp giữa du khảo và sưu khảo, xây dựng hệ thống biểu tượng,…Chính điều đó đã góp phần thể hiện vốn kiến thức phong phú, đa dạng ở nhiều lĩnh vực cũng như nghệ thuật viết văn đặc sắc của Trần Bảo Định. Tất cả những yếu tố trên đã cùng cộng hưởng làm nên một diện mạo riêng cho ngòi bút “Ông già Nam Bộ nhiều chuyện” trong bối cảnh dòng văn học sinh thái và phê bình sinh thái Việt Nam đang hòa chung vào dòng văn học sinh thái và phê bình sinh thái thế giới. Những gì mà Trần Bảo Định mang lại cho nền văn học Việt Nam càng có ý nghĩa và đáng trân trọng hơn khi ông đã dùng chính quỹ thời gian ít ỏi và “sức tàn” của một bệnh nhân ung thư đang như ngọn đèn cạn dầu, sắp tắt để đem tiếng nói của mình góp chung tiếng nói với văn học sinh thái Việt Nam bảo vệ môi trường sinh thái của quê hương Nam Bộ nói riêng, môi trường sinh thái ở Việt Nam và thế giới nói chung.
Với Trần Bảo Định, văn chương đơn giản chỉ là “một cuộc chơi” nhưng những gì ông làm được không hề đơn giản như một cuộc chơi mà có ý nghĩa hết sức lớn lao. Nó đã chứng minh cho tinh thần trách nhiệm của Trần Bảo Định trên con đường thực hiện thiên chức cao quý của nhà văn và khẳng định ông đã thực hiện một cách xuất sắc sứ mệnh cao quý đó.
(Rút từ "Văn xuôi Trần Bảo Định dưới góc nhìn phê bình sinh thái", Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Văn học Việt Nam, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2019).