Hôn nhân sắp đặt là một phần của văn hóa Ấn Độ tồn tại suốt mấy nghìn năm qua, và hiện tại vẫn có chỗ đứng vững chắc trong xã hội này bất chấp những thay đổi về kinh tế và xã hội. Nhiều người xem nó như một kết cấu chủ yếu của xã hội Ấn Độ, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xã hội, kinh tế, địa lý và lịch sử Ấn Độ. Prakasa cho rằng hôn nhân sắp đặt thực nhiều chức năng trong cộng đồng Ấn Độ: giúp duy trì chế độ thỏa mãn xã hội, cho phép cha mẹ kiểm soát các thành viên trong gia đình, tăng cường khả năng duy trì dòng dõi tổ tiên, tăng cường các mối quan hệ họ hàng, tạo điều kiện củng cố và mở rộng tài sản gia đình, cho phép những người lớn tuổi bảo vệ các nguyên tắc của chế độ nội hôn (1).
Thực hành một cuộc hôn sắp đặt là cách để tạo nên sự gắn kết giữa các gia đình thuộc đẳng cấp trên. Về sau, phong tục này lan rộng đến các đẳng cấp thấp hơn với cùng một mục đích. Mỗi cuộc hôn nhân sắp đặt sẽ có những chi tiết khác nhau tùy vào việc người ta thuộc Hindu giáo hay Hồi giáo. “Hôn nhân được xem như là sự kết hôn giữa hai gia đình nhiều hơn là giữa hai cá nhân”(2). 95% các cuộc hôn nhân của người Ấn Độ hiện nay được sắp đặt, có thể thông qua việc thỏa thuận khi còn bé hoặc sự sắp xếp của gia đình, bạn bè. Đạo luật chống hôn nhân trẻ em 1929-1978 ghi rõ: “Tuổi pháp lý cho hôn nhân là 18 đối với nữ và 21 đối với nam, tốt nhất là phụ nữ kết hôn ở độ tuổi 24 và nam kết hôn vào cuối tuổi đôi mươi của họ”. Tuy nhiên, nhiều trẻ em ở độ tuổi 15 và 16 đã bị ép kết hôn, các cuộc hôn nhân này mặc dù không có giá trị pháp lý nhưng cũng không thể hủy bỏ theo đạo Hindu hoặc đạo Hồi, nó không được thừa nhận cho đến khi đương sự đúng độ tuổi quy định của pháp luật: 18 tuổi đối với nữ và 21 tuổi đối với nam.
Hôn nhân sắp đặt của đạo Hồi
Trong đức tin Hồi giáo, sắp đặt hôn nhân là trách nhiệm của cha mẹ. Nhiệm vụ của cha mẹ không được coi là hoàn thành trừ khi con cái của họ được hạnh phúc trong hôn nhân. Hôn nhân là một sunad (luật cổ truyền của các nước Hồi giáo), là trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái mà họ phải hoàn thành vì phụ nữ được xem như một người tạo dựng cho ngôi nhà của người khác. Bước đầu tiên, cha mẹ của chú rể sẽ tìm kiếm người con gái phù hợp với con trai họ. Khi tìm được người con gái vừa ý, cha của chú rể gửi cho cha của cô dâu một bức thư dạm hỏi. Nếu cha cô dâu nhận lời thì một buổi lễ chính thức được tổ chức tại nhà gái. Lễ hỏi bao gồm các lễ vật như vải vóc, hoa tai, dây chuyền,… Trong lễ hỏi, các bậc cha mẹ ấn định thời gian tổ chức lễ cưới, thường là vào mùa hè vì nó cho phép nhiều thời gian hơn cho mọi người tham dự. Lễ cưới thực hiện theo đúng nghi thức rukun nikah: thứ nhất, phải có người đại diện phía nhà gái làm chủ hôn gọi là wali; thứ hai, phải có hai người làm chứng gọi là saksi; thứ ba, lễ kabon tiến hành giữa ông wali và chú rể, ông wali tuyên bố việc gả người con gái và chú rể chấp nhận việc cưới cô dâu; thứ tư, phải có cô dâu; thứ năm, phải có chú rể. Buổi lễ chính thức được diễn ra trước sự chứng kiến của nhiều người. Sau lễ cưới ba ngày, chú rể phải đưa cô dâu về thăm cha mẹ mình và phải mang sang nhà gái các vật dụng sinh hoạt như nồi, niêu, xoong, chảo, gạo, muối,… Cha mẹ chú rể sẽ đưa vợ chồng mới cưới đi thăm người thân. Chú rể có thể đưa vợ về ở nhà mình hoặc đến sống chung cùng với gia đình bên vợ.
Phần lớn những cuộc hôn nhân sắp đặt của đạo Hồi được cử hành sau lễ hỏi 4 năm. Ngoài buổi lễ chính còn có các buổi lễ phụ:
Lễ rửa của chú rễ: trong lễ rửa, các thành viên nữ trong gia đình chú rể tắm gội và mặc trang phục truyền thống cho chú rể.
Lễ rửa của cô dâu: cô dâu được tắm gội, cho henna (cây lá móng được sử dụng nhuộm móng, da, tóc trong các lễ hội truyền thống), đồ trang sức.
Hôn lễ (nikah) phải có mặt cô dâu và chú rể. Khi nó được công nhận thì kinh Koran được đọc và người cha quyết định của hồi môn với 40% được trả tại đám cưới, số còn lại được thỏa thuận thanh toán vào một ngày sau đó. Việc chi trả của hồi môn là một tục lệ lâu đời nhưng được coi là bất hợp pháp ở Ấn Độ. Sau khi thống nhất về của hồi môn, hợp đồng hôn nhân được thiết lập và người con gái về sống với gia đình chồng.
Nếu con gái vẫn chưa lập gia đình thì được coi là độc thân và sẽ làm cho gia đình xấu hổ, trở thành gánh nặng của gia đình. Một người phụ nữ ly dị hoặc độc thân sau tuổi 24 cũng chịu chung số phận này.
Hôn nhân sắp đặt của đạo Hindu
Hôn nhân là một sự kết hợp thánh thể theo đức tin Hindu. Con người sẽ không hoàn thiện và được xem là xấu xa nếu họ không kết hôn (3). Vì niềm tin này, nhiều gia đình bắt đầu chuẩn bị hôn nhân cho con cái từ rất sớm với sự giúp đỡ của bà con, bạn bè, người mai mối. Hầu hết phụ nữ được kết hôn trước tuổi dậy thì, các cô gái được kết hôn trước 16 tuổi còn các chàng trai thì trước 22 tuổi. Tuy nhiên, các cặp vợ chồng thường không trải qua đêm tân hôn cho đến tận 3 năm sau khi kết hôn. Tuổi pháp lý cho hôn nhân là 18 tuổi đối với nữ và 21 tuổi đối với nam. Cũng giống như cuộc hôn nhân sắp đặt của đạo Hồi, văn hóa Hindu nhờ người mai mối tìm những đám thích hợp. Khi tìm được đám thích hợp thì sắp xếp cho gặp mặt, hai gia đình gặp nhau để thảo luận về của hồi môn, thời gian và địa điểm tổ chức đám cưới và xem xét sao chiếu mạng của chàng trai và cô gái. Trong suốt thời gian gặp nhau này, những người đàn ông của gia đình hội ý riêng ở nhà giữa trong khi những người bà con xa ngồi bên ngoài trao đổi. Nếu hai gia đình đồng ý, họ bắt tay nhau và ấn định ngày cưới.
Ngày tổ chức nghi lễ trước đám cưới rất thiêng liêng, thường diễn ra vào sáng sớm, chú rễ dẫn cô dâu đi quanh ngọn lửa bảy lần. Sau lễ, cô dâu được đưa trở lại nhà mình. Cô dâu có một khoảng thời gian được mẹ chồng hướng dẫn tìm hiểu các hoạt động trong gia đình. Trong thời gian này, cô không được phép va chạm với những người đàn ông trong gia đình bởi vì cô được coi là tinh khiết cho đến khi hôn nhân được hoàn thành. Giai đoạn này khoảng từ 3 đến 6 năm.
Người mai mối
Người mai mối cho các cuộc hôn nhân truyền thống được gọi là nayan. Người mai mối thường là một người bạn của gia đình hoặc họ hàng xa. Họ là người trung gian, trung lập khi các gia đình sắp xếp một cuộc hôn nhân. Những người mai mối thực hiện hai chức năng: thăm dò, tìm kiếm những đám phù hợp và là người đàm phán thương lượng giữa các gia đình. Người mai mối xem xét hoàn cảnh gia đình, địa vị kinh tế, đặc điểm chung, danh tiếng gia đình, giá trị của hồi môn... Khi tìm được đám thích hợp, người mai mối thông báo và cung cấp thông tin về đối tượng. Sự trao đổi thông tin được tạo điều kiện thuận lợi thông qua nayan cho đến khi một số thỏa thuận được đáp ứng. Tùy thuộc vào từng địa phương mà tổ chức cuộc gặp gỡ giữa hai gia đình để hoàn tất thỏa thuận kết hôn và đồng thời cho phép các cặp trai gái nhìn thấy nhau.
Khi đã thỏa thuận xong, nayan có thể yêu cầu hỗ trợ trong việc chuẩn bị hôn nhân: mua đồ trang sức, trang phục, nghi lễ được thiết lập và thông báo với cộng đồng. Nayan thường không nhận tiền mà nhận quà tặng: quần áo, thực phẩm và sự hỗ trợ trong nông nghiệp từ phía các gia đình.
Báo chí, internet, quảng cáo truyền hình và các công ước xã hội được xem như là nayan hiện đại. Các gia đình Ấn Độ ở các thành phố lớn sử dụng các phương tiện thông tin như người trung gian, là cách để lấp vào khoảng trống văn hóa ở những nơi có số lượng nhỏ người Ấn Độ sinh sống.
Của hồi môn
Của hồi môn ban đầu là quà tặng tình yêu, về sau là quà tặng hôn nhân của đẳng cấp trên, trong thời trung cổ, nhu cầu cho của hồi môn trở thành tiền chất của hôn nhân. Nhu cầu của hồi môn lan rộng đến các đẳng cấp thấp hơn và trở thành vấn đề về uy tín, một tục lệ cứng nhắc, xa hoa. Lệ về của hồi môn trở thành công cụ nâng cao địa vị xã hội và giá trị kinh tế của gia đình. Prakasa lưu ý mục đích của của hồi môn như sau: là dịp để người dân nâng cao lòng tự trọng và phô bày sự sung túc về của cải vật chất, tạo sự tương xứng giữa các gia đình, ngăn chặn sự phá sản của gia đình, tìm một đám tốt cho con gái, trang bị cho con gái những điều kiện kinh tế và an sinh xã hội.
Bản chất xa hoa của của hồi môn đã làm kéo dài tuổi hôn nhân trong giai cấp trung lưu và bình dân bởi gia đình không thể đáp ứng nhu cầu về của hồi môn, buộc một số gia đình vượt qua đẳng cấp của họ để tìm chú rể ở đẳng cấp khác.
Lệ về của hồi môn có một số nhược điểm nhất định. Nhiều gia đình gặp khó khăn vì những đòi hỏi của hồi môn. Không đủ của hồi môn, họ đành ngăn cấm hôn nhân con trẻ và dẫn đến không ít tình trạng các cô gái tự tử để giải thoát cho cha mẹ về gánh nặng của hồi môn. Vì vậy, nhiều người xem của hồi môn là một tệ nạn xã hội và là gánh nặng không thể chịu được của gia đình cô dâu.
Từ đó, Luật cấm của hồi năm 1961 được thông qua. Luật quy định, “cho, nhận hoặc yêu cầu của hồi môn là hành vi vi phạm pháp luật bị phạt tù và phạt tiền”. Của hồi môn cũng được định nghĩa lại như “tài sản bất kỳ hoặc tài khoản có giá trị được cho hoặc được thống nhất trực tiếp hay gián tiếp giữa hai bên để tiến tới hôn nhân”. Luật còn nêu rõ: “bất kỳ món quà nào được cho tại thời điểm kết hôn dưới các hình thức: tiền mặt, trang sức, quần áo hoặc các sản phẩm khác không tính như của hồi môn. Chúng được coi là quà cưới”(4). Việc cho nhận của hồi môn không ảnh hưởng đến tính hợp pháp của hôn nhân. Nếu có ai cho của hồi môn thì cô dâu có quyền nhận nhưng người cho sẽ bị phạt nếu bị phát hiện.
_______________
1, 2, 3, 4. Prakasa, Rao, Hôn nhân, gia đình và phụ nữ ở Ấn Độ, Nxb Nam Á, 1982, tr.17, 15, 14, 77.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 341, tháng 11-2012