1. Quan niệm của Hồi giáo về phụ nữ
Trong kinh Coran và Thánh luật Sharia của Hồi giáo có ghi rất rõ những điều luật về phụ nữ. Theo đó, địa vị của người phụ nữ không được quyết định bởi những cố gắng của bản thân họ, mà nó chịu sự chi phối rất lớn từ quan niệm của tôn giáo này. Các nghiên cứu cho biết: Kinh Coran là cuốn sách thiêng ghi chép các lời của chúa Allah, nên nó được coi là bộ luật tối cao và không ai có quyền sửa đổi. Bộ luật Sharia được triển khai từ kinh Coran nên cũng là thánh luật bất khả xâm phạm (2). Do dó, những điều gì dù bất công, vô lý đã được kinh Coran và thánh luật Sharia áp đặt lên số phận người phụ nữ cũng đều trở thành bất di bất dịch trong các nước Islam giáo.
Từ thời cổ đại, xã hội A rập cho rằng: sự hiện diện của con gái là một điều nhục nhã. Do đó, con gái có thể bị cha mẹ gả bán hay chôn sống ngay từ lúc chào đời. Người phụ nữ là một tài sản thuộc về cha hay chồng họ, có thể bị đánh đập, đuổi đi lúc nào tùy ý. Kinh Coran quy định rất rõ về sự bất bình đẳng nam nữ: khi cha mẹ chia gia tài thì con gái chỉ được hưởng bằng một nửa phần của con trai; khi các nhân chứng ra trước tòa làm chứng thì lời khai của đàn bà chỉ có giá trị bằng một nửa lời khai của đàn ông; khi nạn nhân là phụ nữ bị giết thì thân nhân chỉ được nhận một nửa số tiền bồi thường. Với những quy định trên thì phụ nữ vẫn có quyền thừa kế, quyền sinh tồn và quyền công dân, nhưng quyền lợi của họ chỉ bằng nửa quyền lợi của đàn ông, tức là nếu đàn ông là thực thể loại một thì phụ nữ chỉ được coi là thực thể loại hai. Thực tế đã có nhiều tôn giáo coi phụ nữ là một thực thể không hoàn hảo, nhưng có lẽ không tôn giáo nào lại đánh giá thấp vai trò của người phụ nữ như đạo Islam.
Trong gia đình, người phụ nữ có nghĩa vụ duy nhất là sản xuất chiến binh và hầu hạ chồng con… Đến khi Islam giáo ra đời, những quan niệm và tập tục lạc hậu này đối với phụ nữ được củng cố và tăng cường bởi niềm tin tôn giáo (3). Đạo Islam thẳng thắn tuyên bố: phụ nữ là một thực thể loại hai. Kinh Coran dành hẳn một chương nói về phụ nữ. Giải thích uy quyền của đàn ông đối với đàn bà, ở chương 4, điều 34 của kinh Coran đã viết: “Đàn ông có quyền hơn đàn bà vì chúa đã sinh ra đàn ông cao quý hơn đàn bà và vì đàn ông phải bỏ tài sản của mình ra nuôi họ. Đàn bà phải biết vâng lời đàn ông vì đàn ông chăm sóc cả phần tinh thần của đàn bà. Đối với những phụ nữ không biết vâng lời, đàn ông có quyền ruồng bỏ, không cho nằm chung giường và có quyền đánh đập”(4). Theo thánh Allah, “đàn bà chỉ là quần áo của đàn ông”, “đàn bà là thửa ruộng để đàn ông khai khẩn”, “đàn ông cao hơn đàn bà về nguồn gốc”(5).
Việc dựng vợ gả chồng cho con cái trong xã hội Hồi giáo được thực hiện từ rất sớm, thông thường từ khoảng 10 tuổi trở lên. Điều này khiến cho những nỗi vất vả của người phụ nữ kéo dài thêm. Ở chương 2 điều 223, kinh Coran coi thiên đàng là “khu vườn của lạc thú nhục dục muôn đời”, còn ở trên thế gian này thì người vợ là “cánh đồng của người chồng nên người chồng có quyền đi và gieo hạt trên cánh đồng của mình”(6). Hôn nhân trong xã hội Islam giáo được hiểu là người đàn ông mua vợ cho mình (dưới hình thức tiền chuộc). Người phụ nữ được mua về làm vợ chỉ có địa vị phụ thuộc và chức năng sinh con để bù lại giá trị mà chồng họ đã bỏ ra. Trên tinh thần đó có có thể hiểu là, người chồng đã đi mua khả năng sinh đẻ của người vợ và có toàn quyền đối với họ. Như vậy, phụ nữ đã bị coi là một thứ công cụ để đẻ con và để thỏa mãn dục tính của người đàn ông.
Từ khi Islam giáo ra đời, chế độ đa thê của A rập tiếp tục tồn tại và được thừa nhận là một việc làm hoàn toàn đạo đức. Lương Thị Thoa cho biết: Giáo luật Islam giáo quy định số vợ hợp pháp cho mỗi tín đồ là bốn (số vợ chính thức mà giáo chủ Môhamét đã cưới) và không được cưới hai chị em cùng một lượt. Trong trường hợp các cuộc hôn nhân không trọn vẹn, nhất là người chồng không may bị chết, giáo luật Islam giáo khuyến khích việc chắp nối chị (em) dâu góa bụa với anh (em) của người chồng quá cố (7). Đàn ông theo đạo Islam có quyền lấy nhiều vợ nhưng đàn bà chỉ được phép lấy một chồng.
Phụ nữ theo đạo Hồi không có quyền tự ý hay chủ động trong ly hôn. Họ có thể bị người chồng ruồng bỏ bất cứ lúc nào, bằng bất cứ lý do gì (vô sinh, không vâng lời chồng, lắm điều hoặc thậm chí vì không đưa của hồi môn cho nhà chồng…) để đến với người đàn bà khác. Nếu ngoại tình thì người đàn ông không có tội, còn là đàn bà thì sẽ bị xử phạt rất nặng, bị đem ra nơi công cộng để mọi người ném đá đến chết.
Theo kinh Coran, muốn ly hôn một người phụ nữ, người đàn ông chỉ cần nhắc lại ba lần câu “tôi bỏ cô” trước mặt một người đàn ông khác. Ngược lại, người phụ nữ Islam giáo muốn ly hôn phải ra trước tòa án trình bày lý do đến khi được chấp nhận. Trần Dương cho biết: Người phụ nữ chỉ được giữ lại của hồi môn cùng đứa con gái dưới 7 tuổi và đứa con trai dưới 2 tuổi và nuôi chúng đến khi trưởng thành, cùng với một cuộc sống cơ cực đến chết, là tất cả những quyền lợi mà người phụ nữ được hưởng sau khi cuộc hôn nhân tan vỡ (8).
Các tín đồ Hồi giáo luôn tâm niệm kinh Coran là chân lý tối hậu của Thiên chúa và không ai dám coi đó là những điều vô lý hoặc bất công. Theo đó, các tín đồ của thánh Allah không còn con đường nào khác là phải tuyệt đối phục tùng. Và như thế, trải qua hơn chục thế kỷ, kinh Coran đã gieo biết bao tai họa cho các phụ nữ sống trong xã hội Islam giáo.
2. Địa vị của người phụ nữ trong xã hội Hồi giáo truyền thống
Ở các xã hội Hồi giáo, ngay từ khi vừa cất tiếng khóc chào đời, bé gái đã không được đón đợi. Tôn giáo của thánh Allah cho rằng, phụ nữ là những người phụ thuộc đàn ông vì không thể kiếm sống độc lập. Do đó, một bé trai được sinh ra cũng có nghĩa sẽ có một nguồn thu nhập về sau và sẽ có người giúp đỡ lúc về già. Sự trọng nam khinh nữ của đạo Islam còn có biểu hiện man rợ nhất là tục cắt xẻo bộ phận sinh dục nữ, được thực hiện với trẻ em từ độ tuổi sơ sinh đến lúc trưởng thành. Dụng cụ cắt xẻo rất thô sơ và mất vệ sinh nên các bé gái dễ bị nhiễm trùng máu hay uốn ván, thậm chí còn gây hậu quả làm đau đớn suốt cuộc đời của người phụ nữ.
Tìm hiểu các nước theo đạo Islam, hầu như không có học sinh nữ vì học hành không được coi là cần thiết đối với con gái. Những việc làm cần trình độ giáo dục thường chỉ dành cho đàn ông (9). Phụ nữ Hồi giáo không có mục tiêu quan trọng hơn ngoài việc phải lấy được chồng.
Trong cuộc sống hàng ngày, người phụ nữ bắt buộc phải tỏ ra đoan trang, thùy mị và thận trọng. Xã hội Islam giáo quan niệm và đánh giá về danh dự gia đình căn cứ vào hành vi cư xử của người phụ nữ, nhất là các chị em gái. Do vậy, mọi biểu hiện thiếu đứng đắn, dù nhỏ nhất của họ đều không thể tha thứ, nhất là khi bị nhiều người khác biết. Họ sẽ bị những người đàn ông trong gia đình trừng phạt mà không cần chờ đến sự cho phép của luật pháp.
Người phụ nữ Hồi giáo ăn mặc sao cho người ngoài xã hội không được thấy mặt mình. Trang phục rộng với chiếc khăn trùm kín đầu và cổ, hay với cả chiếc mạng che kín khuôn mặt đã trở thành hình ảnh đặc trưng của người phụ nữ Isalm giáo. Các ký giả phương Tây gọi đó là cái “túi đựng xác người sống”. Chiếc áo rất nặng vì được may bằng nhiều nếp gấp và rộng thùng thình, khiến cho nhiều người phụ nữ bị ngạt thở hoặc mắc chứng đau đầu kinh niên vào mùa hè, khi trời nóng bức. Islam giáo cho rằng, chiếc áo đó là những biểu tượng của sự trong sạch và trinh tiết, của đạo đức và phẩm hạnh. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng, đây thực chất là biểu hiện của sự bất bình đẳng về mặt xã hội của người phụ nữ.
Người phụ nữ Hồi giáo phải sống trong sự phân biệt đối xử, hầu như tách biệt hoàn toàn với thế giới của đàn ông. Không gian duy nhất mà người phụ nữ tự do đi lại là ngôi nhà của mình. Do đó, các cô gái không có cơ hội lựa chọn người bạn đời cho mình và buộc phải vâng lệnh kết hôn theo sự sắp đặt của cha mẹ. Nữ giới phải đi lấy chồng từ rất sớm, trong độ tuổi trung bình từ 12-15. Trong các bộ lạc du mục, nhiều khi cha mẹ gả chồng cho con gái lúc mới 5-6 tuổi (người vợ yêu thích nhất của nhà tiên tri Môhammed lúc kết hôn chỉ mới 6 tuổi). Điều này làm tăng độ tuổi sinh nở và thời gian phụ nữ phải phục vụ cho gia đình nhiều thế hệ của nhà chồng. Các ông chồng không bao giờ chia sẻ với vợ những công việc trong gia đình. Nếu người vợ làm trái ý chồng, người chồng có quyền đánh đập một cách rất tàn bạo (10), thậm chí bị giết chết, đặc biệt là khi người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Đàn ông có thể lấy tối đa 4 vợ để chứng tỏ anh ta là một người Islam giáo chân chính, nhưng tất cả các cô vợ của anh ta đều phải giữ đạo làm vợ và tuyệt đối chung thủy. Nếu phạm tội ngoại tình, cô sẽ bị xử phạt rất nặng, thậm chí có thể bị chồng giết chết. Trong xã hội Hồi giáo, một người đàn ông giết vợ, chị em gái hay thậm chí cả mẹ mình có thể không bị kết tội nếu anh ta chứng minh được rằng người phụ nữ đó phạm tội ngoại tình (11).
Vấn đề phân công lao động được đạo Islam giáo quy định nghiêm ngặt theo giới tính: đàn ông là những người mang lại thu nhập cho gia đình, còn đàn bà thì làm công việc nội trợ. Bổn phận của người phu nữ là chuẩn bị bữa ăn cho gia đình, chăm sóc súc vật, làm vườn, lấy nước, dọn dẹp, sửa sang nhà cửa, chế biến, cất giữ nông sản trong nhà. Trong gia đình Melayu truyền thống, người phụ nữ đóng vai trò quan trọng, nếu không nói là vai trò then chốt: chăm sóc chồng con, làm công việc nội trợ, tham gia vào công việc sản xuất như gieo trồng, gặt hái(12). Hầu như toàn bộ phụ nữ Islam giáo truyền thống làm việc trong phạm vi gia đình, chỉ có một số rất nhỏ, không đáng kể, được đi làm trong nhà máy hay văn phòng và tiền công của họ thường thấp hơn so với nam giới khoảng 20-30% (13). Chính vì vậy, mặc dù phụ nữ có đóng góp rất lớn trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế gia đình, cuộc sống gia đình của người Islam giáo không thể thiếu bàn tay của người phụ nữ, nhưng công lao thầm lặng của họ thường bị đánh giá rất thấp, không tương xứng với những nỗi nhọc nhằn và sự hy sinh của họ. Không phải phụ nữ không có khả năng để kiếm sống một cách độc lập, mà vấn đề ở đây là họ không có điều kiện, không có cơ hội để thực hiện điều đó một cách bình đẳng như nam giới. Các nhà nghiên cứu Viện Nghiên cứu Đông Nam Á cho biết: “Ở Malayxia, nơi Hồi giáo là quốc giáo, người phụ nữ thường ít có cơ hội học hành và hoạt động xã hội hơn nam giới”(14).
Luật lệ gia đình gắt gao và bất bình đẳng của đạo Islam khiến phụ nữ gặp nhiều khó khăn khi muốn ly hôn. Đàn ông có thể ly dị vợ một cách dễ dàng thì phụ nữ chỉ có thể ly dị nếu người chồng đồng ý. Tuy nhiên, do phải đối mặt với cuộc sống nghèo nàn hoặc sẽ mất những đứa con sau khi hôn nhân tan vỡ, khiến người phụ nữ Islam giáo phải luôn chôn chặt đời mình trong những cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Có thể nói, cuộc sống gia đình ở xã hội Islam truyền thống nhiều khi là địa ngục trần gian của người phụ nữ Hồi giáo.
Khi đã ngoài 20 tuổi, người phụ nữ sẽ ít có cơ hội lấy được chồng, trừ khi phải lấy những người đàn ông đã ly dị hay góa vợ. Trong trường hợp như vậy, họ bị coi là kém cỏi, sẽ thấy đau buồn, tủi hổ và phải sống ở nhà chăm sóc cho bố mẹ già. Tuy luật pháp không cấm sống độc thân nhưng người phụ nữ Islam giáo không thể làm được điều đó vì sức ép của gia đình và của xã hội.
Có thể thấy, quan niệm bình đẳng của Islam giáo với sự phân công lao động ngặt nghèo như trên, người phụ nữ luôn bị ràng buộc với gia đình, lệ thuộc vào cha, anh em trai và chồng. Trong xã hội, địa vị của họ luôn thấp kém, phụ thuộc và vai trò của họ vì thế đã bị phủ nhận. Những quan niệm và quy định của đạo Islam đã ngấm sâu vào cách nghĩ, cách nhìn nhận của xã hội về phụ nữ, thậm chí nó còn khiến nhiều phụ nữ chấp nhận tình trạng đó như một điều hiển nhiên.
Trong thời trung đại, chỉ có ở Inđônêxia, ngay cả khi Islam giáo đã trở thành tôn giáo thống trị, một số khu vực trên quần đảo xinh đẹp này vẫn tiếp tục nằm dưới quyền cai trị của nữ hoàng. Các nghiên cứu (15) cho biết: Vào TK XVII, Sultanah Tajul Alam Sajiatuddin Johan Berdaulat đã trị vì Aceh trong suốt thời gian dài khoảng 30 năm. Việc bà được bổ nhiệm làm nữ hoàng chứng tỏ các quan chức trong chính phủ cũng như các chức sắc Islam giáo đã thừa nhận bà có khả năng hoàn thành sứ mệnh của người đứng đầu đất nước. Dưới thời bà trị vì, luật Islam giáo, văn học, khoa học đã phát triển không ngừng. Sự lãnh đạo thiên tài của bà cũng giúp Aceh tránh khỏi sự đô hộ của thực dân Hà Lan. Bà còn cho xây dựng nhiều trường học dành cho cả học sinh nam và nữ, vì theo bà, luật Islam cho phép các tín đồ nam nữ bình đẳng trong việc bồi bổ nâng cao kiến thức của mình.
Cũng tại Inđônêxia, vào giữa TK XIX, Siti Aisyah We Tenrioll, một phụ nữ thông minh, có ý chí mạnh mẽ, đã trở thành nữ hoàng của vùng Ternate vào năm 1856. Siti Aisyah đã thống nhất được một số vùng trước đây còn là khu tự trị dưới quyền của mình, khẳng định tài năng và bản lĩnh không kém các bậc nam đế vương. Kế tục sự nghiệp của mẹ, ba cô con gái của bà cũng được bổ nhiệm làm người đứng đầu chính quyền ở ba vùng Pancana, Jololang và Pao Pao. Không chỉ là người lãnh đạo giỏi, Siti Aisyah còn là một nhà văn tài ba. Bà đã sáng tác bản anh hùng ca Ja Galigo dài 7000 trang. Bà cũng là người cho xây dựng trường học đầu tiên ở Ternate, tạo ra cơ hội học tập cho cả nam và nữ.
Như vậy, ngay cả thời trung đại, khi mà Hồi giáo đã trở thành tôn giáo ngự trị trên toàn đất nước Đảo Dừa, người phụ nữ Inđônêxia vẫn được tôn trọng và giữ trọng trách trong xã hội. Họ không chỉ làm tròn bổn phận của người vợ, người mẹ mà còn tham gia gánh vác các trách nhiệm khác trong xã hội (16). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu vẫn nhận định rằng, đó chỉ là một vài điểm sáng nhỏ nhoi trong bức tranh tối màu về cuộc sống, địa vị của người phụ nữ trong xã hội Islam giáo truyền thống.
Sang TK XIX, các quốc gia Hồi giáo cũng giống như các dân tộc khác trên thế giới bị chủ nghĩa thực dân phương Tây thống trị. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, người phụ nữ Islam giáo đã đóng góp sức mình chống lại thực dân phương Tây. Vì độc lập dân tộc, họ đã mạnh dạn đã phá bỏ mọi điều kiêng kỵ tôn giáo cùng nam giới xuống đường đấu tranh (17). Các nghiên cứu cho biết, chiến thắng Điện Biên Phủ của người Việt Nam đã thúc đẩy 10.000 phụ nữ Angiêri gia nhập hàng ngũ kháng chiến quân võ trang (18), đấu tranh giải phóng dân tộc.
Dưới ách thống trị thực dân, người phụ nữ được hưởng nhiều quyền tự do hơn trước. Nhưng ở một số nước như Angiêri và Ai Cập, phụ nữ vẫn tiếp tục mặc áo choàng và đeo mạng che mặt mặc dù được chính quyền thực dân cho phép cởi bỏ. Trong bối cảnh đương thời, hành động đó có thể hiểu là biểu hiện của lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tự hào tôn giáo, chống lại ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Những chiếc áo choàng đen phủ kín từ đầu đến chân cũng đã trợ giúp đắc lực người Islam giáo trong các hành động đấu tranh chống nhà cầm quyền thực dân.
Bước vào thời kỳ hiện đại, xu thế tiến bộ toàn cầu và các ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, cùng sự phát triển của nền kinh tế, chính trị, xã hội hiện đại đã tác động tới việc nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí xã hội của người phụ nữ, đồng thời khơi dậy và thúc đẩy tinh thần đấu tranh giành lại quyền bình đẳng, giải phóng người phụ nữ. Nhiều học giả trong tác phẩm của mình đã dành những lời cảm phục nhất đến những người phụ nữ Islam giáo: “Chúng tôi dành tặng cuốn sách này cho tất cả những người phụ nữ, những người đang phải đối mặt với đói nghèo và đang tiếp tục phải chịu đựng nhiều gian khổ trong xã hội mà chúng ta đang sống với một sức mạnh phi thường, sự bền bỉ và tình yêu”(19).
_______________
1. Thu Sương,Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu lần thứ 18: Điểm hẹn của các nhà lãnh đạo nữ hàng đầu thế giới,báoPhụ nữ Việt Nam, số 5 (2958), ngày 11-1-2008, tr.4.
2, 9, 10, 11, 13. Trịnh Huy Hóa (biên dịch),Hồi giáo, NxbTrẻ, TP.HCM, 2002, tr.182, 183, 176, 182, 179.
3, 7. Lương Thị Thoa,Thử tìm hiểu một vài nét đặc trưng của đạo Hồi, tạp chíNghiên cứu Tôn giáo, số 5-2001, tr. 61-62.
4. Charlie Nguyễn,Thân phận phụ nữ Hồi giáo, google.com.vn.
5. Ban Tôn giáo Chính phủ,Một số tôn giáo Việt Nam, Hà Nội, 1995, tr.162.
6. Nguyễn Văn Dũng,Địa vị người phụ nữ trong thế giới Islam giáo, tạp chíNghiên cứu Tôn giáo, số 6-2005, tr.50.
8. Trần Dương,Thân phận người phụ nữ ở các nước Hồi giáo, tạp chíThông tin Khoa học xã hội, số 8-1994, tr.55.
12. Mai Ngọc Chừ,Xã hội Malay: Truyền thống và hiện đại, tạp chíNghiên cứu Đông Nam Á, số 3-2003, tr.41.
14. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á,Liên bang Malaysia - lịch sử, văn hóa và những vấn đề hiện đại, NxbKhoa học Xã hội, Hà Nội, 1998.
15, 16. Phạm Thị Vinh,Phụ nữ Hồi giáo Inđônêxia trong phát triển, tạp chíNghiên cứu Đông Nam Á, số 3-1995, tr.63-64.
17. Nguyễn Văn Dũng,Địa vị người phụ nữ trong thế giới Islam giáo, tạp chíNghiên cứu Tôn giáo, số 6-2005, tr.147.
19.Women in Sabah, Published by Sabah Women Action Resource Group, Malaysia, 1992.
Nguồn: Tạp chí VHNT số 345, tháng 3-2013