Bối cảnh kinh tế vĩ mô
Với dân số gần 1,2 tỷ, Ấn Độ là nền dân chủ lớn nhất thế giới hiện nay. Bất chấp vị trí của nó trong cái gọi là Thế giới Thứ ba, một phần miền Nam đang phát triển, Ấn Độ đã nổi lên như một trong những nền kinh tế sôi động nhất và phát triển nhanh chóng trong hai thập kỷ qua, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm đều đặn từ 7-9%. Ngay cả khi các nền kinh tế phương Tây gặp phải suy thoái kinh tế trong những năm gần đây thì kinh tế Ấn Độ vẫn tiếp tục tăng trưởng mạnh hơn 5%. Việc Ấn Độ hiện nay đang ngày càng bắt kịp với các nước như Trung Quốc, Brazil hoặc Nam Phi và các cường quốc kinh tế mới nổi của thế giới là điều không phải ngạc nhiên.
Ấn Độ đương đại cũng là vùng đất của những mâu thuẫn. Mặc dù nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng và chính trị dân chủ mạnh mẽ nhưng nó vẫn là quê hương của một số lượng rất lớn người dân nghèo, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào khác về số lượng tuyệt đối. Mặc dù quá trình tăng trưởng kinh tế đã cho phép Ấn Độ giảm nghèo, cả về tuyệt đối cũng như tương đối, nhưng bất bình đẳng xã hội vẫn tiếp tục gia tăng tại Ấn Độ.
Giữa tất cả những điều này, Ấn Độ cũng nhìn thấy một sự mở rộng dần dần số lượng những người có thể được mô tả như là tầng lớp trung lưu hoặc các nhóm có thu nhập trung bình. Các chuyên gia cho rằng, quá trình tăng trưởng kinh tế, về cơ bản, đã làm thay đổi cơ cấu xã hội của Ấn Độ, từ một xã hội đặc trưng bởi “sự tương phản rõ nét giữa một nhóm ưu tú nhỏ và một số lượng lớn người nghèo khó, trở thành một xã hội với các tầng lớp trung gian đáng kể” [1]. Mặc dù không có sự thay đổi đột ngột nào, nhưng tầng lớp trung lưu Ấn Độ đã phát triển về kích thước trong các thế kỷ qua, đặc biệt là sau khi giành độc lập, thoát khỏi sự cai trị thuộc địa. Tuy nhiên, tầng lớp trung lưu Ấn Độ cũng đã chứng kiến một sự thay đổi về chất đầu những năm 1990 với sự ra đời của cải cách kinh tế và hội nhập ngày càng cao của nền kinh tế Ấn Độ vào thị trường toàn cầu. Cải cách kinh tế cùng quá trình toàn cầu hóa đã làm thay đổi khá cơ bản định hướng của nền kinh tế Ấn Độ. Từ một vùng đất được biết đến như là cộng hòa làng xã và cộng đồng nông nghiệp, Ấn Độ bắt đầu mọc lên các thành phố xunh quanh, cùng với sự năng động đầy sức sống và các tầng lớp trung lưu. Các thành viên có học vấn và tay nghề của tầng lớp này được so sánh với những cá nhân ưu tú nhất trên thế giới ngày nay về mặt thành tích và năng lực thể hiện của họ trong nền kinh tế "mới". Thậm chí nếu họ chỉ là một tỉ lệ nhỏ trong tổng dân số, thì con số tuyệt đối của tầng lớp trung lưu Ấn Độ sẽ vượt quá tổng dân số của nhiều quốc gia phát triển phương Tây. Họ tạo ra một nền tảng thị trường và không gian văn hóa khả thi cho tư bản toàn cầu hoạt động và phát triển ở Ấn Độ.
Đánh giá về kích thước của tầng lớp này có sự thay đổi đáng kể. Tùy thuộc vào phương pháp tính toán, kích thước của nó dao động từ 10 đến 30% dân số Ấn Độ. Tuy nhiên, mặc dù có những thay đổi trong phương pháp luận nhưng không ai phủ nhận một thực tế là, trong những năm qua, tầng lớp trung lưu Ấn Độ đã phát triển cả về quy mô và ảnh hưởng, và giờ đây số lượng tuyệt đối của họ là khá lớn. Ví dụ, theo một cuộc khảo sát mẫu thực hiện bởi Hội đồng Quốc gia về nghiên cứu kinh tế ứng dụng trong các năm 2007-2008, Ấn Độ có 126 triệu hộ gia đình (không phải người) thuộc loại thu nhập trung bình, những hộ kiếm được khoảng từ 3.830 đến 22.970 USD hàng năm[2]. Theo một ước tính của Ngân hàng Phát triển Châu Á năm 2005, Ấn Độ đã có 214 triệu người có mức chi tiêu mỗi ngày từ 2-4 USD, 43,5 triệu người khác có chi tiêu mỗi ngày từ 4 đến 10 USD và 4,7 triệu người có mức chi tiêu trong khoảng 10 đến 20 USD [3]. Một ước tính gần đây của Kannan và Raveendran đã đưa ra con số những người thu nhập tầm trung của Ấn Độ rơi vào khoảng 19% tổng dân số Ấn Độ[4]. Tuy nhiên, họ cũng chỉ ra những khác biệt khu vực đáng kể trong sự phân bố mật độ dân số có thu nhập trung bình.
Câu chuyện tăng trưởng của Ấn Độ chủ yếu là tập trung vào các đô thị. Khu vực đô thị đóng góp tới hơn hai phần ba các hoạt động sản xuất. Đồng thời, Ấn Độ cũng chứng kiến một sự suy giảm trong sản xuất nông nghiệp. Hiện nay nông nghiệp chỉ đóng góp khoảng 15% vào GDP. Mặc dù việc di chuyển từ việc làm nông nghiệp và nông thôn sang việc làm khu vực dịch vụ đô thị và công nghiệp diễn ra khá chậm ở Ấn Độ, nhưng con số tầng lớp trung lưu Ấn Độ vẫn tiếp tục tăng lên.
Khái niệm tầng lớp trung lưu và sự phát triển của nó ở Ấn Độ
Tầng lớp trung lưu ở Ấn Độ đã tăng trưởng ở thời điểm chuyển giao giữa chủ nghĩa thực dân, nhà nước dân chủ và phát triển kinh tế (tư bản). Giai đoạn đầu tiên của sự phát triển tầng lớp trung lưu có thể được đặt trong thời kỳ thuộc địa. Động lực cho việc này đến từ các thuộc địa Anh. Trong hai thế kỷ cai trị của mình, họ đã đem đến cho Ấn Độ nền kinh tế công nghiệp hiện đại, giáo dục thế tục và một khuôn khổ hành chính mới. Anh mở trường học và cao đẳng ở các phần khác nhau của Ấn Độ, đặc biệt là ở các thành phố thuộc địa Calcutta, Bombay và Madras. Năm 1911, đã có 186 trường cao đẳng ở các vùng khác nhau của Ấn Độ với 36.284 sinh viên. Con số này đã lên đến 231 trường và 59.595 sinh viên vào năm 1921 và năm 1939 đã có 385 trường cao đẳng dạy 144.904 [5].
Trong nhiều năm, có một tầng lớp mới nổi lên ở Ấn Độ. Ngoài những người làm các công việc hành chính trong Chính phủ Anh ra, họ còn bao gồm các chuyên gia như luật sư, bác sĩ, giáo viên và các nhà báo. Họ đến từ các nền tảng tương đối được ưu tiên, chủ yếu là đẳng cấp trên, và “từ gia đình thoải mái về tài chính, nhưng không đủ giàu để không phải làm việc kiếm sống. Đây là một yếu tố phân biệt họ với tầng lớp giàu có nhất của xã hội Ấn Độ như các chủ đất có di sản lớn hay những hậu duệ của một tầng lớp quý tộc bản địa. Nó cũng đặt họ rõ ràng ở trên đại đa số người nghèo” của Ấn Độ[6].
Tầng lớp trung lưu mới chớm có được nền giáo dục hiện đại trong nước Ấn Độ và nước ngoài, bị ảnh hưởng bởi những ý tưởng mới của chủ nghĩa tự do và dân chủ đã trở nên phổ biến ở phương Tây sau cuộc Cách mạng Pháp. Họ đã khởi xướng “phong trào cải cách xã hội” trong cộng đồng của họ và huy động người Ấn Độ đấu tranh cho tự do để thoát khỏi chế độ thực dân. Tuy nhiên, mặc dù tầng lớp này là “hiện đại”, nhưng nó cũng tham gia vào các phong trào quyền con người và đóng một vai trò tích cực trong việc tăng cường các ranh giới tôn giáo và cộng đồng.
Giai đoạn thứ hai của tầng lớp trung lưu bắt đầu với việc Ấn Độ độc lập thoát khỏi sự cai trị thuộc địa vào năm 1947. Mặc dù bộ phận lãnh đạo chính trị dân chủ chủ yếu bao gồm các thành viên của tầng lớp trung lưu, và nhà nước bắt đầu đóng một vai trò kinh tế tích cực trong việc thúc đẩy chuyển đổi kinh tế xã hội, tầng lớp trung lưu lại một lần nữa trở thành một phạm trù quan trọng nằm giữa nhà nước và xã hội. Nhà nước dân chủ Ấn Độ không chỉ giữ lại bộ máy quan liêu cũ, mà còn mở rộng nó với nhiều nhóm người và với mức tăng trưởng ổn định của nhà nước phát triển[7].
Trong thời đoạn mười lăm năm, từ 1956 đến 1970, khu vực công (trung ương, nhà nước, địa phương và các cơ quan nửa chính phủ) đã có thêm 5,1 triệu lao động. Trong thập kỷ tới, mức tăng trưởng thậm chí còn ấn tượng hơn. Trong khuôn khổ nền kinh tế hỗn hợp, khu vực tư nhân cũng đóng một vai trò nhỏ nhưng rất quan trọng trong nền kinh tế. Trong khu vực tư nhân có tổ chức, đã gia tăng 1,7 triệu lao động vào giữa những năm 1960 và 1970. So với các khu vực công, tăng trưởng việc làm trong thập kỷ tiếp theo là chậm chạp, chỉ tăng thêm nửa triệu lao động[8].
Như vậy, bản chất của tầng lớp trung lưu trong những thập kỷ sau độc lập là điển hình của một tầng lớp làm công ăn lương chuyên nghiệp, không có bất kỳ tham gia sáng tạo trực tiếp nào trong buôn bán, thương mại và công nghiệp, "ít về tiền nhưng nhiều bổng lộc chế độ"[9]. Nguồn gốc quyền lực của nó chủ yếu từ quyền tự chủ tương đối của nhà nước trong giai đoạn này. Thông qua việc kiểm soát hệ thống quan liêu, các tầng lớp trung lưu thường xuyên khống chế bộ máy và chính sách nhà nước cho lợi ích riêng của mình. Các quan chức cấp cao hơn cũng nắm sức mạnh từ mô hình phát triển kinh tế mà Ấn Độ đã thông qua sau khi độc lập, trong mô hình đi theo mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa của Liên Xô này, nhà nước Ấn Độ đã tham gia trực tiếp, mặc dù cùng với khu vực tư nhân, trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế.
Khá giống như tổ tiên của mình, tầng lớp trung lưu thời kỳ thuộc địa, tầng lớp mới nổi này cũng có những khuynh hướng trái ngược nhau. Đặc tính, chính trị cũng như mối quan hệ với nhà nước và nền kinh tế của tầng lớp này bị ảnh hưởng bởi các đặc tính đặc thù bắt nguồn từ vị trí xã hội và tộc người của các thành viên của nó, chẳng hạn như đẳng cấp, khu vực ngôn ngữ học, hoặc tôn giáo. Sự đa dạng bên trong của tầng lớp trung lưu Ấn Độ còn tăng lên hơn nữa trong giai đoạn này. Với thể chế bầu cử dân chủ, phát triển kinh tế (công nghiệp và nông thôn), và có lẽ quan trọng nhất là các chính sách hành động quả quyết (điều kiện) đối với các đẳng cấp và bộ lạc trong các cơ sở giáo dục của nhà nước, công ăn việc làm và các cơ quan lập pháp, đã làm mở rộng các cơ sở xã hội của tầng lớp trung lưu. Những thành phần đang nổi lên của tầng lớp trung lưu này đã tạo ra những người lãnh đạo và lên tiếng đại diện cho những người dân Ấn Độ đã phải chịu thiệt thòi trong lịch sử.
Giai đoạn thứ ba của tầng lớp trung lưu Ấn Độ bắt đầu vào những năm 1980 cùng với sự suy tàn của nhà nước Nehruvian, sự hỗn loạn trong xã hội và chính trị, sự nổi lên của các phong trào xã hội mới xoay xung quanh các đòi hỏi về quyền và bản sắc, sự thay đổi nhanh chóng trong nền kinh tế chính trị và cải cách kinh tế đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thời kỳ này cũng chứng kiến một sự thay đổi mang tính thế giới quan trong các tranh luận về tầng lớp trung lưu Ấn Độ. Tầng lớp trung lưu "mới" bắt đầu được xác định và thảo luận ngày càng nhiều liên quan đến các hành vi tiêu dùng của nó - điều tạo nên cơ sở xã hội cho nền kinh tế tư bản định hướng thị trường.
Tuy nhiên, cách nhìn nhận tiêu thụ như là đặc điểm xác định của tầng lớp trung lưu có xu hướng biến nó thành phạm trù nhóm có thu nhập đồng đều. Phạm trù tầng lớp trung lưu rộng hơn nhóm thu nhập. Do đó, tầng lớp trung lưu cũng cần được phân tích để hiểu cho đúng, cần phải phân tích vai trò của nó trong mối quan hệ với nhà nước, thị trường và xã hội dân sự; về vai trò của nó liên quan đến các lợi ích chính trị, kinh tế xã hội của các cộng đồng khác nhau. Trong khi việc xây dựng khái niệm này làm hạn chế sức mạnh về số lượng của tầng lớp trung lưu, thì nó lại mở rộng khung phân tích để hiểu sự tương tác của tầng lớp trung lưu với nhà nước, thị trường và xã hội dân sự. Theo đó, trước tiên chúng ta sẽ xem xét các nhóm thu nhập trung bình và mối quan hệ, vị trí và vai trò của họ trong thị trường lao động.
Kinh tế của tầng lớp trung lưu Ấn Độ: Phạm trù thu nhập và vai trò kinh tế
Sự mở rộng các nhóm thu nhập trung bình ở Ấn Độ là một kết quả của việc làm tạo ra bởi khu vực công và tư nhân có tổ chức. Biểu đồ 1 cho thấy việc làm trong lĩnh vực có tổ chức của nền kinh tế Ấn Độ. Đây là lĩnh vực mà tầng lớp trung lưu có sự hiện diện tối đa trong giai đoạn thứ hai của mình. Những việc làm trong khu vực công tăng từ 11,2 triệu năm 1971 đến 18 triệu năm 2007. Tuy nhiên, chúng ta có thể phân chia chính sách của nhà nước để tạo thành hai giai đoạn của việc làm khu vực công. Trong giai đoạn 1970-1971 đến 1979-1980 và 1980-1981 đến 1990-1991, khoảng 4,38 triệu và 3,58 triệu công nhân đã lần lượt được bổ sung vào khu vực công. Sự "mỏng đi của nhà nước" đã không xảy ra cho đến năm 1996-1997.
Việc làm khu vực công đi xuống trong thời kỳ từ năm 1996-1997 đến năm 2006-2007 (1,56 triệu công nhân đã bị giảm biên chế trong giai đoạn này). Quan trọng hơn, sự co lại của khu vực công giai đoạn đó không có nghĩa là các hoạt động kinh tế và phát triển của nhà nước đi xuống. Ngược lại, các chi tiêu cho phát triển và ngoài phát triển của chính quyền trung ương và nhà nước tăng lần lượt từ 6,182 triệu USD và 5.493 triệu USD trong năm 1981-1982 lên 198.776 và 202.067 triệu USD trong năm 2009-10. [10]
Hình. 1: Việc làm trong khu vực công và các khu vực tư nhân được tổ chức (triệu)
Nguồn: Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ, Sổ tay Thống kê kinh tế Ấn Độ, năm 2010, Mumbai
Tuy nhiên, các số liệu cũng cho thấy sự mỏng đi của số lượng việc làm khu vực nhà nước. Số lượng tuyển mới bị hạn chế và sự phi chính thức trong khu vực chính thức dường như được gia tăng[11]. Ví dụ, các nhiệm vụ phát triển như điện, vệ sinh môi trường, an ninh, cấp nước, .v.v. ngày càng được giao khoán nhiều hơn cho các đơn vị tư nhân với thiết kế sẵn có được giám sát thông qua nhóm sử dụng. Nhà nước không còn là nơi sản xuất và tái sản xuất chính của tầng lớp trung lưu Ấn Độ.
Quan trọng hơn có lẽ là sự mỏng đi của khu vực nhà nước đã không chuyển thành một sự mở rộng đáng kể việc làm trong khu vực tư nhân có tổ chức. Việc làm khu vực tư nhân có tổ chức chỉ tăng từ 6.740.000 (năm 1970-1971) lên đến 9,24 triệu (năm 2006-07). Nói cách khác, nó được mở rộng với tốc độ rất khiêm tốn, gần 1% mỗi năm. Tuy nhiên, trong suốt thời gian từ năm 1997-1998 đến năm 2005-06, nó đã co lại và giảm khoảng 0,3 triệu người lao động[12].
Xét về khía cạnh đẳng cấp, các dữ liệu cho thấy rằng, các nhóm thu nhập trung bình có vẻ như chủ yếu đến từ đẳng cấp Hindu bên trên. Tuy nhiên, trong những năm qua có sự tăng chậm nhưng chắc trong số lượng các hộ gia đình thuộc các nhóm xã hội khác.
Vai trò kinh tế của các nhóm thu nhập trung bình
Các nhóm thu nhập trung bình nằm trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế - hoạt động kinh tế khu vực 1, 2, 3, 4 (các hoạt động trí tuệ) và các hoạt động kinh tế khu vực 5 (mức cao nhất nắm quyền ra quyết định trong một xã hội hay nền kinh tế). Trong các phân đoạn này, họ đang nằm chủ yếu ở khu vực tư nhân không có tổ chức, mặc dù có một tỷ lệ đáng kể cũng nằm trong khu vực công và tư nhân chính thức. Việc làm khu vực chính thức, cả khu vực công và tư nhân (được thảo luận ở trên) chỉ đơn thuần được ước tính là 7% tổng số việc làm có sẵn trong nền kinh tế[13]. Theo một ước tính hợp lý, nhóm thu nhập trung bình và cao hơn sẽ không tạo thành nhiều hơn 3-4% tổng số việc làm trong khu vực có tổ chức của nền nền kinh tế[14]. Khoảng 23% tổng số việc làm khu vực không có tổ chức bao gồm nhóm thu nhập trung bình. Điều tra kinh tế mới nhất của Chính phủ Liên minh lưu ý rằng, khu vực dịch vụ chiếm ưu thế chủ yếu trong tăng trưởng kinh tế trong hai thập kỷ qua, tiếp theo là ngành công nghiệp và nông nghiệp.
Bảng 1: Tỷ lệ các ngành trong việc làm
Tỷ lệ | Thay đổi trong tỷ lệ | |||||
Ngành | 1993/94 | 2004/05 | 2007/08 | 05/2005 trên 1993/94 | 2007/08 trên 2004/06 | 2007/08 trên 1993/94 |
Khu vực 1 | 64.5 | 57.0 | 55.9 | -7.5 | -1.1 | -8.6 |
Khu vực 2 | 14.3 | 18.2 | 18.7 | 3.9 | 0.5 | 4.4 |
Khu vực 3 | 21.2 | 24.8 | 25.4 | 3.6 | 0.6 | 4.2 |
Nguồn: GOI 2011, n. 17
Trong điều kiện lao động như trong Bảng 1, khu vực dịch vụ (khu vực thứ ba) và công nghiệp (khu vực thứ hai) tiếp tục tiếp nhận một số lượng công nhân đáng kể. Từ năm 1993-1994 đến 2007-08, tỷ lệ mất việc trong khu vực thứ nhất rất nổi bật. Sự gia tăng mang tính hệ quả trong tỷ lệ việc làm của hai khu vực khác gần như được chia đều giữa khu vực thứ hai và khu vực thứ ba. Tuy nhiên, khu vực thứ nhất (nông nghiệp) tiếp tục giữ lại khoảng 55% nguồn nhân lực trong khi phần đóng góp của nó cho trong GDP ít hơn 20%.
Xét về lĩnh vực việc làm, nhóm thu nhập trung bình phần lớn nằm trong khu vực dịch vụ. Trong ngành dịch vụ, các nhóm thu nhập trung bình có khả năng tìm được việc làm trong các lĩnh vực:
▪ thương mại,
▪ du lịch, bao gồm khách sạn và nhà hàng,
▪ Các dịch vụ vận chuyển và cảng,
▪ lưu trữ,
▪ dịch vụ liên quan đến viễn thông,
▪ bất động sản,
▪ Công nghệ thông tin (CNTT) và dịch vụ CNTT,
▪ Các dịch vụ kế toán, kiểm toán,
▪ nghiên cứu và phát triển,
▪ Các dịch vụ cơ sở hạ tầng (đường giao thông, đường sắt, hàng không dân dụng),
▪ Các dịch vụ tài chính,
▪ Các dịch vụ xã hội (y tế, giáo dục).
Các lĩnh vực này chi trả tương đối tốt, có hợp đồng lao động linh hoạt và làm việc thông qua logic thị trường hiệu quả và năng suất. Lĩnh vực thứ hai tạo ra những hộ gia đình thu nhập trung bình phần lớn từ các lĩnh vực sản xuất, khai thác khoáng sản, điện, hàng hóa cơ bản, hàng hóa trung gian và hàng tiêu dùng. Theo đó, các hộ gia đình thu nhập trung bình ở khu vực nông thôn được thành lập bởi nông dân, các doanh nghiệp nhỏ và nhân viên chính phủ làm công ăn lương. Với sự giúp đỡ của phân loại thu nhập bởi các cơ quan quốc tế và quốc gia, thảo luận về thời kỳ trước đây, các hộ gia đình có thu nhập trung bình sẽ là chiếm khoảng 25-28% tổng số việc làm.
Ảnh hưởng của cấu trúc xã hội truyền thống tiếp tục hiện diện trong nền kinh tế ngày nay. Ngay cả những tài liệu chính thức của Chính phủ Ấn Độ cũng chấp nhận thực tế này. Các nhóm kinh tế xã hội nghèo như bộ lạc hay đẳng cấp đặc định thường được sử dụng trong các ngành công nghiệp trên bờ như nông nghiệp, khai thác mỏ và xây dựng. Người Hồi giáo đã gắn liền với thương mại ngoài các lĩnh vực sản xuất và vận chuyển, lưu trữ và các dịch vụ thông tin liên lạc. Những người thuộc đẳng cấp thấp (OBC) [15] mặt khác được sử dụng trong tất cả các ngành công nghiệp với sự thay đổi ở mức tối thiểu tỷ lệ của họ trong các nhóm ngành công nghiệp khác nhau từ mức bình quân chung. Những người thuộc giai cấp thượng lưu có sự tham gia nhiều hơn trong các ngành dịch vụ béo bở như ngân hàng, tài chính, bất động sản và kinh doanh [16].
Tầng lớp trung lưu và vấn đề nghèo đói
Mặc dù có sự gia tăng trong vấn đề bất bình đẳng thu nhập, nhưng chắc chắn là nghèo đói đã giảm ở Ấn Độ trong vòng hai thập kỷ qua. Tuy nhiên, đánh giá hiệu ứng này thay đổi tùy theo phương pháp luận sử dụng để đo mức độ nghèo đói. Theo phương pháp "cũ", số lượng người nghèo giảm gần 10% trong giai đoạn từ năm 1993/1994 đến năm 2004/2005. Theo phương pháp "mới", đói nghèo nói chung đã giảm gần 15% trong suốt 15 năm qua (từ năm 1993/1994 đến năm 2009/2010) (Bảng 2). Cả hai phương pháp đều đồng ý ở một điểm là tỷ lệ giảm nghèo ở khu vực nông thôn có chút cao hơn các khu vực đô thị. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng, những người thoát khỏi đói nghèo không được ngay lập tức chuyển qua tầng lớp trung lưu, hoặc thậm chí nhóm thu nhập trung bình. Một phần lớn họ di chuyển đến mức chỉ trên mức nghèo khổ và có thể trượt lại tình trạng "dưới mức nghèo đói" một lần nữa, thậm chí là ngay khi chỉ phát sinh một chi phí không lường trước được (ví dụ như chi phí y tế). Một tỷ lệ đáng kể vẫn gần với mức chuẩn nghèo và chỉ kiếm được đủ để tồn tại trong một tình trạng bấp bênh và không ổn định[17].
Bảng 2
Đánh giá mức nghèo đói
Đánh giá bằng phương pháp cũ | Đánh giá bằng phương pháp mới | |||||
Năm | Thành thị | Nông thôn | Tổng | Thành thị | Nông thôn | Tổng |
1993/94 | 32.4 | 37.3 | 36.0 | 31.8 | 50.1 | 45.3 |
2004/05 | 25.7 | 28.3 | 27.5 | 25.7 | 41.8 | 37.2 |
2009/10 | Số liệu không được thực hiện bằng phương pháp cũ | 20.83 | 36.3 | 32.1 |
Nguồn: Điều tra kinh tế (năm 1993-1995 và năm 2004/05), Bộ Phát triển nông thôn (2009/10). Đây là những đánh giá sơ bộ cho năm 2009-10.
Ý nghĩa xã hội và chính trị: Đánh giá tầng lớp trung lưu không dựa vào thu nhập và tiêu dùng
Ấn Độ ngày nay được hình thành bởi những mâu thuẫn bắt nguồn từ cam kết phát triển theo định hướng thị trường - điều này không tránh khỏi sự thiên vị chống lại các tầng lớp ít tài sản và tiềm năng hơn, và mặt khác là cam kết đối với chế định dân chủ bao gồm lời hứa về công bằng. Nói cách khác, đó là sự căng thẳng giữa nền kinh tế thị trường và chính trị dân chủ. Kinh tế thị trường chỉ ra các chính sách kinh tế hướng tới một chế thị trường thân thiện, được hỗ trợ bởi vốn trong nước và quốc tế, các tầng lớp trung lưu thành thị và tầng lớp trung lưu phía trên và các quan lại tân tự do. Còn chính trị dân chủ được thể hiện bằng sự khẳng định ngày càng tăng của các tầng lớp xã hội bị tước đoạt trong lịch sử trên các phương diện xã hội và bầu cử, do nhận thức cũng trải nghiệm thực tế của họ từ các quá trình phát triển. Tầng lớp trung lưu Ấn Độ được đặt vào vị trí khá trọng tâm trong kịch bản mâu thuẫn đang nổi lên này và nó mang gánh nặng cân bằng chúng trong một “Ấn Độ mới”. Nói một cách khác, sự khớp nối kinh tế xã hội của tầng lớp trung lưu này đã được công nhận rộng rãi. Xác nhận của họ về các chính sách nhà nước cũng như bất kỳ phản đối tương tự nào cũng được cả nhà nước cũng như đoàn thể xã hội lớn hơn tiếp nhận một cách nghiêm túc.
Làm thế nào để chúng ta có hiểu tầng lớp trung lưu như là một nhóm xã hội, ngoài căn cứ về thu nhập và tiêu dùng ra? Trong khi sự hiểu biết về các nhóm thu nhập thực sự là rất quan trọng để hiểu ý nghĩa của mô hình tăng trưởng kinh tế ở bất cứ nước nào, thì tầng lớp trung lưu cũng là một phạm trù khái niệm và mang tính lịch sử. Nó đại diện cho các giá trị nhất định và tạo ra các tranh luận về vai trò lãnh đạo. Là một phạm trù xã hội học, đó là phạm vi phản ánh sự đa dạng theo chiều dọc và chiều ngang của một xã hội nhất định. Khi Ấn Độ phát triển, sự đa dạng của các tầng lớp trung lưu cũng tăng lên, với sự gia nhập của các nhóm chịu thiệt thòi trong lịch sử. Tuy nhiên, các khung giá trị và thái độ đối với nhà nước, quá trình chính trị, và các chế độ mong muốn đối với tổ chức kinh tế và tổ chức xã hội của họ có sự khác nhau đáng kể. Tầng lớp trung lưu thuộc đẳng cấp trên nói về hiệu quả thông qua cạnh tranh thị trường và tư nhân hóa các cơ quan công quyền, sự minh bạch và trách nhiệm giải trình của bộ máy quản trị. Điều thú vị là, các phần thuộc tầng lớp trung lưu có nguồn gốc từ các nhóm xã hội bị tước đoạt trong lịch sử cũng viện dẫn ra các khuôn khổ mang tính phổ quát. Tuy nhiên, thay vì hiệu quả, giá trị đạo đức và cạnh tranh, các giá trị phổ quát họ cố gắng thúc đẩy là công bằng, bình đẳng, mẫu mực và các quyền thông qua hành động khẳng định. Nhà nước là một cơ quan quan trọng đối với họ vì nó bảo vệ và phát huy những giá trị phổ quát và đảm bảo sự hiện diện của họ trong quá trình chính trị và kinh tế của đất nước. Tất nhiên, các giá trị này được viện dẫn để bảo vệ lợi ích của các cộng đồng của họ, và vì thế họ thường bị xem thường bởi bộ phận các thành phần chủ yếu của tầng lớp trung lưu Ấn Độ. Đối với họ, những điều này có vẻ như có tính chất đặc thù, và do đó, "không hiện đại" và "chống lại sự tiến bộ".
Sự đa dạng và khác biệt trên diện rộng trong tầng lớp trung lưu Ấn Độ cũng rất quan trọng. Mặc dù có một hiểu biết chung về giá trị của tầng lớp trung lưu, nhưng các thành phần chủ yếu của tầng lớp trung lưu có bất đồng trên nhiều vấn đề tư tưởng. Đôi khi những khác biệt này bắt nguồn từ sự phân chia địa điểm kinh tế-xã hội (chẳng hạn như khu vực, hoặc các khu vực của nền kinh tế) và đôi khi từ bản chất của xã hội hóa chính trị của họ (chẳng hạn như "phe cánh tả" và "cánh hữu").
Cũng giống như vấn đề nhà nước, nhận thức của tầng lớp trung lưu Ấn Độ về vấn đề dân chủ, khung bầu cử và giá trị của các mối quan hệ xã hội cũng khác nhau. Tầng lớp trung lưu thuộc đẳng cấp trên viện dẫn khái niệm bầu cử dân chủ như là khung phổ quát, nhưng bằng chứng nổi bật cho cách viện dẫn như vậy thường được chuyển thành một học thuyết vì lợi ích cá nhân. Điều này được phản ánh tốt nhất trong việc loại bỏ dần dần các tầng lớp trung lưu từ quá trình bầu cử. Cùng với điều này, theo quan sát cho thấy, tầng lớp trung lưu đang ngày càng chuyển hướng “chính trị mới” tập trung vào các tổ chức trong xã hội dân sự chứ không phải đảng phái chính trị hoặc công đoàn. Sự thay đổi mang tính bản chất này đã loại bỏ sự trao quyền cho những đẳng cấp nghèo và thấp hơn, vì các kết cấu hoạch định chính sách bị đặt ra khỏi tiến trình chính trị nơi người nghèo hiện nay có sự hiện diện đáng kể. Trong điều kiện đòi hỏi lớn hơn “dân chủ như là một giá trị”, thì một phần đáng kể tầng lớp trung lưu bên trên sẽ cố gắng cách ly khỏi đói nghèo và ngăn cản mô hình bị loại trừ nổi lên dẫn dắt quá trình tăng trưởng. Việc tái cơ cấu mang tính không gian này được phản ánh tốt nhất trong nhiều cộng đồng nhà ở cư dân và trung tâm mua sắm có cổng[18], những nơi được thiết kế để loại trừ người nghèo và đẳng cấp dưới không có đặc quyền[19].
Kết luận
Tầng lớp trung lưu ở Ấn Độ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp lãnh đạo cho các phần khác nhau trong xã hội Ấn Độ. Các tầng lớp trung lưu đã có thể thay thế sự lãnh đạo truyền thống, hay lãnh đạo truyền thống phải khám phá lại chính bản thân mình như tầng lớp trung lưu để ở lại những vị trí có ảnh hưởng.
Mặc dù trên phương diện tỷ lệ, tầng lớp trung lưu Ấn Độ chiếm ít hơn một phần tư tổng dân số Ấn Độ, nhưng số lượng tuyệt đối của nó lớn hơn dân số của nhiều quốc gia trên thế giới, điều này chính bản thân nó đã cung cấp một nền tảng tiêu thụ rộng lớn cho một nền kinh tế thị trường. Một tính năng quan trọng của tầng lớp trung lưu Ấn Độ là sự đa dạng mang tính nội bộ trên các phương diện thu nhập, nghề nghiệp, đẳng cấp, cộng đồng và khu vực. Tuy nhiên, mặc dù có sự đa dạng này, nhưng tầng lớp trung lưu Ấn Độ cũng có một “phần chi phối”, đại diện cho cộng đồng thống trị của Ấn Độ, tức là đẳng cấp bên trên, ở thành thị và theo đạo Hindu. Trong khi tầng lớp trung lưu Ấn Độ có tính lưu động toàn cầu, không gian sống hiện đại và sử dụng ngôn ngữ hiện đại, họ cũng tích cực tham gia vào sự khớp nối các bản sắc chính trị của cả hai phần "đa số" chi phối và "thiểu số". Không giống như phương Tây, tầng lớp trung lưu Ấn Độ thiếu tự chủ. Nó vẫn còn phụ thuộc vào sự bảo trợ và duy trì văn hóa bảo trợ.
[1] E. Sridharan, “The Growth and Sectoral Composition of India's Middle Class: Its Impact on the Politics of Economic Liberalization”, India Review, Vol. 3 & 4, 2004, 405.
[2] Rajesh Shukla and Roopa Purusothaman, “The Next Urban Frontier: Twenty Cities to Watch”, National Council of Applied Economic Research (NCAER) and Future Capital Research (FCH), New Delhi, 2008.
[3] Asian Development Bank (ADB), “Asia s Emerging Middle Class: Past, Present, And Future”, in: Key Indicators for Asia and the Pacific, Manila, 2010.
[4] K.P. Kannan and G. Raveendran, “India’s Common People: The Regional Profile”, Economic and Political Weekly, Vol. XLVI, No. 38, September 17-24, 2011, 60-73.
[5] B.B. Mishra, The Indian Middle Class, Delhi, Oxford University Press, 1961, 304.
[6] Sanjay Joshi, The Middle Class in Colonial India, New Delhi,Oxford University Press, 2011, 91.
[7] Developmental state implies state-led macro-economic planningfor socio-economic development of the country.
[8] Government of India (GOI), Economic Survey, Ministry ofFinance Government of India, 1971; cf. Reserve Bank of India (RBI), Handbook of Statistics on Indian Economy, Mumbai, 2000.
[9] William Mazzarella, Middle Class, 1, http://anthropology.chicago.edu/pdfs/mazz_middleclass.pdf (accessed September 10, 2011).
[10] William Mazzarella, Middle Class, 1, http://anthropology.uchicago.edu/pdfs/mazz_middleclass.pdf (accessed September 10, 2011).
[11] GOI, The Challenge of Employment: An Informal Sector Perspective, Vol. 1, National Commission for Enterprises in Unorganised Sector, New Delhi, 2009, 10-15.
[12] RBI, n. 8.
[13] GOI 2009, n. 11 .
[14] GOI 2009, n. 11
[15] Other Backward Classes (Editor’s note).
[16] GOI 2009, n. 11, 65.
[17] For a detailed discussion, cf. Arjun Sengupta, K.P. Kannan and G. Raveendran, “India’s Common People”, Economic and Political Weekly, Vol. 43, No. 11, March 15-21, 2008.
[18]Debolina Kundu, “Elite Capture in Participatory Urban Governance”, Economic and Political Weekly, Vol. 46, No. 10, March 5-11, 2011, 23-25; Lalitha Kamath and M. Vijayabaskar, “Limits and Possibilities of Middle Class Associations as Urban Collective Actors”, Economic and Political Weekly, Vol. 44, No. 26 and 27, June 27-July 10, 2009, 368-376; John Harriss, “Antinomies of Empowerment Observations on Civil Society, Politics and Urban Governance in India”, Economic and Political Weekly, Vol. 42, No. 26, June 30-July 6, 2007, 2716-2724.
[19] Malcolm Voyce, “Shopping Malls in India New Social Dividing Practices”, Economic and Political Weekly, Vol. 42, No. 22, June 2-8, 2007, 2005-2062.
Nguồn: http://cis.org.vn