Những học thuyết triết học Ấn Độ có tính chất tôn giáo. Theo lời Hêghen: “Triết học Ấn Độ được đồng nhất với tôn giáo: vì thế điều thú vị ở tôn giáo cũng là cái mà chúng ta có thể tìm thấy trong triết học” [3, tr.114]. Những nhà tư tưởng triết học chủ đạo trong lịch sử tư tưởng ấn Độ đều bày tỏ niềm tin vào Bàlamôn giáo, Phật giáo, đạo Jaina chính thống, và xem mình là thành viên của một trong các tôn giáo trên. Những người theo chủ nghĩa duy vật và hoài nghi những tôn giáo đối lập ở đất nước này thường có những hoạt động diễn ra trong một khoảng thời gian rất ngắn và không thể bắt rễ vào quá trình lịch sử. Cả Phật giáo và đạo Jaina đều có hệ thống tư tưởng rất có tính triết học, nhưng họ đã phát triển những tôn giáo trên hơn là những môn phái triết học. Dù những nhà lôgic học và những nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên chấp nhận họ là những người đưa ra quan điểm duy vật, tất cả đều có một sự quan tâm sâu sắc đến khả năng trực giác của tôn giáo thần bí. Chí ít họ đã thừa nhận tầm quan trọng đặc biệt của nó và tin tưởng rằng sự giải thoát về tinh thần có thể thực hiện được nhờ sự trợ giúp của trực giác này.
Từ những thời kì xa xưa, triết học với một khuynh hướng tôn giáo mạnh mẽ đã giữ một vị trí cao trong xã hội Ấn Độ. Điều này thu hút sự chú ý của người Hi Lạp. Apollonius Tyana, một người thuộc trường phái Pytago vào thế kỉ thứ nhất, đã viết trong cuốn sách du khảo về phương Đông rằng triết học rất được coi trọng ở Ấn Độ và ở đó họ điều khiển mọi việc rất tốt đẹp nhờ sự chỉ đạo của những hiểu biết triết học. Rõ ràng là điều mà Apollonius đã miêu tả bằng từ ………trước hết là một thứ có liên quan đến tôn giáo và siêu hình học [2, tr.196-197].
Bởi vì đặc trưng tôn giáo trong tư duy của người ấn Độ nói chung là được thừa nhận, ở đây, chúng ta sẽ tự hạn chế bản thân mình nếu nhận định rằng khuynh hướng thiên về tôn giáo chỉ là một đặc trưng trong tư duy của những nhà triết học riêng biệt, mà trái lại nó còn được gắn vào một nguồn gốc sâu hơn - trong phương thức tư duy nói chung của người Ấn Độ. Những ngôn ngữ mà họ sử dụng với ý nghĩa diễn tả những ý tưởng của họ mang ảnh hưởng đặc biệt của đặc trưng tôn giáo trong phương thức tư duy.
Một trong những đặc trưng tôn giáo trong những ngôn ngữ Ấn Độ có thể là đối tượng quan sát một cách rõ ràng mà trong đó các nhà lôgic học phương Tây gọi là “những phán đoán khách quan”. Trong nhóm ngôn ngữ Ấn - Âu, những động từ diễn tả hiện tượng tự nhiên luôn được sử dụng một cách khách quan (không ngôi) trong các hình thức của ngôi thứ ba số ít. (Ví dụ như pluit trong tiếng Latin, it rains trong tiếng Anh, es regent trong tiếng Đức). Tất cả các ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ này đều tuân theo quy tắc diễn đạt và quy tắc này thường được các nhà lôgic học cho là “những phán đoán khách quan”. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ của người Ấn Độ cổ đại, họ thích sử dụng những hình thức diễn tả như “thần linh làm cho mưa rơi”, “thần linh làm cho sấm động” (Cũng có các ví dụ như vậy trong sách tiếng Pali). Trong nhiều trường hợp “thần linh” chỉ là một sự ám chỉ và không được nói một cách rõ ràng bằng những từ ngữ cụ thể [6, tr.61]. Những kiểu câu thường dùng từ “thần linh” như là chủ ngữ vẫn được người Ấn Độ sử dụng cho đến ngày nay. Người Hi Lạp cổ đại cũng có những hình thức diễn đạt tương tự. Ví dụ, trong anh hùng ca Homeros, những động từ biểu thị thời tiết đều đặt Zeus như là chủ ngữ [8, tr.154]. Và trong ngôn ngữ Latin cũng vậy, họ tuân thủ những hình thức diễn đạt tương tự. Vì thế, những hình thức diễn tả này không phải là những sản phẩm riêng biệt của ngôn ngữ Ấn Độ. Nhưng trong thực tế, những hình thức diễn tả này được ưa thích đặc biệt bởi những người Ấn Độ cổ đại một cách rộng rãi và thực tế cho thấy họ đã sử dụng nhiều thế kỉ những cách diễn tả mang đặc trưng tôn giáo của người Ấn Độ. Người Ấn Độ cổ đại, khi họ nghĩ về các hiện tượng tự nhiên, họ luôn luôn tưởng tượng ra một vị thần tạo ra các hiện tượng đó như thể là chúng tồn tại một cách một cách bí mật.
Ở Ấn Độ, họ đã phát triển một quan niệm rất phức tạp về thần linh. Họ có nhiều từ ngữ để chỉ thần linh. Tiếng Sanskrit tương đương với từ … của Hi Lạp và từ deus của tiếng Latin là deva. Ba từ này tương ứng với nhau theo nghĩa từ nguyên cũng như ý nghĩa của chúng. Tuy vậy, trong ngôn ngữ Sanskrit, có thuật ngữ có nghĩa là thần linh. Họ gọi các vị thần hàng dưới là devata, mà những nhà nghiên cứu về Ấn Độ dịch là “thần thánh” hay “thần”. Trong các dạng từ khác, devata có những điểm giống với từ “Gottheit” của tiếng Đức, hay từ “Godhead” (thượng đế) của tiếng Anh. Nhưng về mặt ý nghĩa, nó gần hơn với từ “Gottliche Person” hay “Goklike person”. Brahmar là một dạng từ trung tính có nghĩa là bản nguyên của thế giới. Nhưng khi họ quan niệm bản nguyên của thế giới như là một sức mạnh thần thánh, thì họ dịch từ từ “Brahman” một cách đặc biệt như là một danh từ thuộc giống đực. Bên cạnh đó, họ có từ atman và paramatman có nghĩa là Linh hồn và Tinh thần Tuyệt đối [9, chương 7].
Tất cả những từ này biểu lộ những tồn tại thiêng liêng. Nhưng mỗi từ trong đó lại có ý nghĩa riêng biệt và không đồng nghĩa với các từ khác. Đối với ngôn ngữ Hi Lạp, lượng từ vựng phong phú dành cho từ “thần thánh” cũng không tồn tại. Galanos, trong bản dịch tiếng Hi Lạp cuốn Bhagavadgita, đã rất cố gắng dịch tất cả các từ trong tiếng Sanskrit bằng chỉ một từ “ …” (Trong trường hợp này có nghĩa là Tồn tại tuyệt đối, chữ này viết hoa). Theo Schlegel, trong cuốn sách dịch tiếng Latin những sách thánh của người Ấn Độ này, đã dùng từ “deus” tương đương với các từ deva và devata; thần cho từ brahman; linh hồn cho từ atman và spiritus summum locum obtinens (tinh thần tuyệt đối) cho từ paramatman.
Những ngôn ngữ ấn cổ đại rất giầu từ vựng về ý niệm thần linh, trái ngược với ngôn ngữ cổ đại phương Tây. Trước hết bởi vì, người Ấn Độ cổ đại có một khả năng sáng tạo kì diệu những cái có liên quan đến các vị thần, hay chính các vị thần. Và cũng không đúng khi cho rằng sự giàu có từ vựng về các vị thần là một kết quả của hệ thống đa thần giáo trong tôn giáo của họ. Nên nhớ rằng tôn giáo HyLạp, La Mã cũng như Nhật Bản đều bắt đầu trước tiên là đa thần giáo (Từ thời cổ đại, nhiều người Ấn lấy tên của các vị thần như Sankara hay Visnu để đặt tên cho riêng mình và những người trong gia đình. Phong tục đặt tên này không phải là không có ở phía tây Trung Quốc hay Nhật Bản).
Người Ấn có xu hướng tìm hiểu mọi hiện tượng từ một quan điểm tôn giáo. Một trong những tác phẩm thần học cổ nhất giải thích hiện tượng vụ trụ, đã tìm ra mối liên quan với các bộ phận cơ thể động vật trong lễ hiến tế. “Thực ra bình minh là cái đầu của con ngựa thích hợp trong lễ hiến tế, mặt trời là mắt của nó, gió là hơi thở của nó, miệng là ngọn lửa Vaisvanara, tuổi tác là cơ thể của con ngựa hiến tế. Thiên đường là cái lưng, bầu trời là bụng, trái đất là ngực...” [1, tr.74]. Và những quan điểm vũ trụ học tương đương cũng được diễn tả trong Brahmanas và Aranyakas. ở những nước Bắc Âu và Trung Quốc, có rất nhiều những truyện giống như thần thoại Ấn Độ, đề giải thích sự hình thành thế giới bởi sự tự phân chia của thần Vũ trụ [4, tr.21]. Nhưng những câu chuyện thừa nhận mối quan hệ mật thiết giữa các yếu tố của nghi lễ tôn giáo với hiện tượng tự nhiên đã phát triển một cách độc đáo ở Ấn Độ.
Ở Ấn Độ, tinh thần tuyệt đối được gọi là Brahman. Đầu tiên, từ này có nghĩa là “những lời nói trong kinh Vedas”, được kể lại trong các nghi lễ có tính chất ma thuật. Không ở một đất nước văn minh nào, một tư tưởng có liên quan đến nghi lễ như Brahman lại có vị trí như đấng Tuyệt đối.
Đối với những người Bàlamôn, một vấn đề rất quan trọng là giành được thời gian, điều mà cho phép được biểu lộ trong các nghi lễ tôn giáo. Với họ, sinh ra trên thế giới này là cuộc đời thứ nhất; trong tư cách để thực hành nghi lễ là cuộc đời thứ hai; và chết rồi tái sinh trên Thiên đàng là cuộc đời thứ ba.
Ở trên chúng tôi đã đề cập đến cách viết, cách nói rườm rà của người Ấn Độ, mà nó bắt nguồn từ mâu thuẫn đặc biệt của họ trong việc tổ chức các vấn đề theo luật lệ. Chúng tôi đưa thêm vào đây một nguyên nhân cơ bản nữa, mà nó chứng tỏ họ kiên trì với kiểu rườm rà này. Đó là sự liên quan đến tôn giáo của họ. Người Ấn Độ cổ đại đã học thuộc lòng bằng cách truyền miệng những lời kinh thánh trong tôn giáo của họ. Trong tiến trình thời gian, các hình thức thuật lại đã được hình thành. Và họ tin vào sức mạnh một sức mạnh ma thuật trong hành động tự thuật đó. Nắm được sức mạnh ma thuật trong công việc đó, nó được hiểu là sự cần thiết tiếp tục những dạng đã được thiết lập và nhắc lại một cách trung thực trong bất kì những một hoàn cảnh tường thuật nào. Không một dạng thay đổi tuỳ tiện nào được chấp nhận. Do đó, người ấn cổ đại không tạo ra những hình thức tường thuật ngắn gọn và cô đọng, tuy nhiên, hình thức lặp lại nhàm chán đó thì có thể. Bất kì một câu cách thức nào cũng được quy định về việc kể lại và lắng nghe một cách cẩn thận. Việc bỏ sót một từ trong việc kể lại được xem là một tội lỗi tôn giáo nghiêm trọng. Người Ấn Độ cổ đại tuân theo một cách nghiêm ngặt và kiên nhẫn hình thức thuật lại dài dòng và buồn tẻ, ngay cả khi trong tâm trí họ không ý thức được về sự tuân thủ và kiên nhẫn ấy, điều này hoàn toàn khiến cho người hiện đại không thể nào chịu được. Đối với một người Ấn Độ cổ đại tu hành khổ hạnh trong một ngôi lều giữa rừng sâu hoặc là một thày tu trong hang động, cuộc đấu tranh với thời gian dường như là vô cùng vô tận.
Khoa học tự nhiên Ấn Độ cũng chịu ảnh hưởng một cách mạnh mẽ của những yếu tố tôn giáo của họ. Người ấn Độ cổ đại đã viết rất nhiều công trình toán học, thiên văn học, y học và các khoa học khác. Và những công trình khoa học của họ được quan tâm hơn nữa sau khi những khoa học của Hy Lạp và La Mã được giới thiệu [7, tr.25]. Một điểm đáng chú ý ở đây là, hầu hết các công trình khoa học của người Ấn Độ này đều mở đầu bằng những lời ngưỡng mộ và niềm tin vào các thần linh. Khoa học Hy Lạp chỉ thực sự phát triển sau khi họ thoát ra khỏi những trói buộc của thần học. Trái lại, khoa học Ấn Độ phát triển như là một bộ phận nghiên cứu bổ trợ cho việc nghiên cứu kinh Vedas. Trong các khoa học tự nhiên, Thiên văn học được công nhận đầu tiên như là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập. Từ thời xa xưa, những môn đồ Bàlamôn chính thống đã rất quan tâm đến Thiên văn học (jyotisa) xem đó như là một trong sáu lĩnh vực nghiên cứu kinh Vedas. Họ cần những kiến thức thiên văn học để tổ chức những nghi lễ tôn giáo chính xác vào những ngày đã chọn trong sách thánh. Và với mục đích này, họ bắt đầu với sự quan sát những mối liên hệ giữa mặt trời, mặt trăng và các các vì sao; do đó, nghiên cứu về “hai mươi tám vì tinh tú” chiếm một phần quan trọng trong thiên văn học. Sự phát triển của toán học ở ấn Độ song song với sự phát triển của thiên văn học. Toán học phát triển trước hết cũng để đáp ứng những nhu cầu có tính hình thức. Người ấn Độ cổ đại đã biết đến thuật giả kim và lĩnh vực này cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của những hình thức tôn giáo [5]. Triết học tự nhiên trong kinh Vaisesika dùng “sức mạnh vô hình” (adrsta) để giải thích sự chuyển động của nguyên tử. Và một khoảng thời gian sau, họ đã gán ý nghĩa tôn giáo cho sức mạnh này.
Từ thời cổ đại, tất cả các nhà khoa học Ấn Độ là những kẻ ngoan đạo hiến dâng cho tôn giáo của mình. Cho đến hiện tại, một số viện nghiên cứu khoa học ở ấn Độ cẫn duy trì sự phục vụ cho tôn giáo. Ở Ấn Độ, khoa học và tôn giáo không nhất thiết phải đối lập nhau; hơn nữa người ta còn tin rằng chúng tồn tại hài hoà và cộng tác với nhau.
Các ngành nghệ thuật Ấn Độ cũng liên hệ một cách sâu sắc với tôn giáo. Hầu hết các tác phẩm nghệ thuật đều liên quan đến những công trình tôn giáo. Theo một số cuốn sách cổ Ấn Độ bàn về nghệ thuật, thì vẻ đẹp cơ bản của nghệ thuật được hiểu không là cái gì nhưng tự nó thống nhất với Cái Tuyệt đối (Absolute). Về âm nhạc của họ, nhiều bài hát được ưa thích của người ấn Độ là những bài bát tôn giáo. Dù những người ấn nhập cư đến nhiều nước khác, họ vẫn giữ được những tình cảm mạnh mẽ với những bài hát tôn giáo quê hương.
Người ấn là người có tính tôn giáo. Sau khi họ định cư ở những vùng ven sông Hằng, người Ấn cổ đại dần hình thành tư tưởng về Samsara. Và họ cảm thấy thực sự là tất cả sự tồn tại bao gồm cả con người, đều bị cuốn vào vòng luân hồi. Một số cách thức diễn đạt bằng lời cho chúng ta biết rõ ràng là tất cả các cách xử sự của người Ấn Độ cổ đại trong cuộc sống hàng ngày đều chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những tư tưởng trong kinh Samsara. Ví dụ, “iha” tiếng Sanskrit tương đương với từ “here” trong tiếng Anh, được dùng trong nhiều trường hợp đều có nghĩa là “trong thế giới này”. Người ấn Độ cổ đại đã hướng cuộc đời của họ lên trên thiên đàng với sự mong chờ cuộc sống sau khi chết. Niềm tin vào thế giới tương lai sau khi chết là một sự mong muốn cũng phổ biến ở những người phương Tây. Nhưng, ở mức độ không thể so sánh được với những trường hợp của phương Tây, niềm tin về sự tái sinh đã thấm sâu trong tâm trí của người Ấn Độ cổ đại và ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đến cuộc sống hàng ngày của họ. Cho nên, rất hợp lí khi những nhà dịch thuật ngôn ngữ cổ đại Ấn Độ của phương Tây đã cố gắng dịch từ “iha” bằng những viện dẫn dài dòng. Ví dụ: iha (trong Bhag, II, 5) = ……… = quoad vivam; Idha modati pecca modati katapunno = In hoc aevo...
Đối với những người Ấn Độ tin vào sự tái sinh của linh hồn (karma), không có tồn tại cuối cùng và cũng không có kiếp cuối cùng. Bất kì cách cư xử của con người trong thế giới trần tục này đều là chính nó và nó không thể là nhân tố cuối cùng của số mệnh con người trong những cuộc sống tương lại của anh ta. Số mệnh của con người trong thế giới tiếp theo chắc hẳn là được định đoạt bởi tất cả những việc tốt và những việc xấu mà anh ta đã làm trong đời ở thế giới này. Và khi anh ta sống cuộc sống đã chuẩn bị trước bởi những việc làm trước kia trong đời mình, anh ta sẽ sống một cuộc sống mới và do đó vòng luân hồi của karma liên tục không ngừng.
Chú thích
(1) Brhad. I.1.1; SBE tập XV, tr.74
(2) F.C.Conybeare (1917), Philostratus, the life of Apollonius of Tyana, tập1, tr.196-197.
(3) Hegel, Vorlesungen uber die Geschichte der Philosophie, Michelet, tr.144.
(4) Ideishi: Jodai Shina ni okeru Shinwa oyobi Setsuwa (Thần thoại và truyền thuyết cổ đại Trung Hoa); Toyo Shicho (Tư duy phương đông), tr.21.
(5) Madhava: Sarvadarsana - samgraha.
(6) Ví dụ: manu IV, 38; kale caivam pravarsati (Suvarnaprabhasa XII, tr.61)
(7) H. Oldenberg: Die Lehre der Upanisharen und die Anfange des Budhismus. S. 25
(8) Shinkichi Sudo: Rourigaku Koyo (Lôgíc học đại cương, tr.154)
(9) Supra, chương 7