LỜI MỞ ĐẦU
CÀNG BƠI CÀNG KHÓ THẦY BỜ
Ấn Độ là một bảo tàng sống. Hầu như rất nhiều phong tục tập quán có từ mấy nghìn năm được lưu giữ trọn vẹn cho đến tận bây giờ. Chẳng hạn, hãy nhìn thiếu nữ đi trên đường kia. Tấm sari cô mang trên người cũng chính là tấm sari của mấy nghìn năm trước. Cái dáng đi khoan thai, có phần hơi chậm rãi, đi mà như ngày rất dài, đời rất dài, cũng chính là dáng đi mấy nghìn năm của người ấn Độ. Bao nhiêu ý kiến của các tổ chức phụ nữ, các đoàn thể yêu cầu cải tiến trang phục cho hợp với đời sống lao động hiện đại, nhưng hầu như rất ít được hưởng ứng... Nhờ thế và nhờ nhiều điều như thế, Ấn Độ luôn luôn là một bảo tàng sống.
Đấy là nhận xét của phần lớn những người nghiên cứu văn hóa phương Đông. Lớp chúng tôi ngày ấy đa số là người Âu - Mỹ, khi hỏi vì sao họ chọn Ấn Độ để nghiên cứu, mà không phải là Trung Quốc, không phải là Ai Cập?... họ đều bảo chính là vì Ấn Độ còn lưu giữ hầu như nguyên vẹn mọi thứ. Không phải lưu giữ hiện vật chết trong bảo tàng, mà lưu bằng cả một đất nước, một xã hội sống động. Những cái nôi văn minh khác đều đã bị tàn phá ít nhiều bởi thiên tai và những cuộc cách mạng, bởi những biến động lịch sử. Riêng ở việc bảo tồn sống động này, liệu ta có phải biết ơn tính bảo thủ của người ấn?
Những ngày đầu ở ấn Độ, tôi như chìm giữa một biển sương mù. Cái nóng làm cho người ta u mê, ý nghĩ chậm chạp, cử động chậm chạp, phản ứng chậm chạp. Một buổi chiều sau giờ học, tôi ngồi một mình ở bến xe buýt, trong cái nóng chỉ chực làm cho mình mê đi, dẫu có tỉnh cũng chỉ là cái tỉnh của cơn mộng du. Chính vào lúc ấy, hình như có một bóng người đi qua trước mặt. Một cánh tay đột ngột chìa tới như định cào vào mặt tôi. Lập tức gạt phắt cánh tay ra. Cánh tay ấy lại cố gắng chìa vào mặt tôi lần nữa. Tôi lại hất ra. Choàng tỉnh từ cơn u mê, tôi thấy một ông già dài râu tóc búi như hiện về từ cổ đại, trên trán quệt mấy vệt màu đỏ màu trắng, cổ đeo tràng hạt, tay cầm cây đinh ba nhỏ bằng đồng sáng bóng, một bình nước cũng bằng đồng sáng bóng. Chính ông vừa hai lần xỉa tay vào mặt tôi và hai lần bị tôi hất tay ra. Ông từ bỏ hành động lạ lùng ấy, lặng lẽ bước đi. Ông đi một lúc rồi mà trống ngực tôi vẫn đập thình thình.
Đấy là một kỷ niệm khiến tôi ngượng mãi. Về sau, nghiên cứu tìm hiểu và trải nghiệm trong đời sống ấn Độ, tôi mới biết ông già gặp ở bến xe hôm ấy là một du sĩ. Những giáo sĩ lang thang như thế ta có thể gặp ở khắp thủ đô New Delhi, khắp ấn Độ. Ông có thể từng là một công chức, có thể là một doanh nhân thành đạt, sau khi đã gây dựng gia đình, dựng vợ gả chồng cho con cái, tự thấy đã trọn việc đời, thì quyết định xa lánh đời trần tục, lên đường theo đuổi đời sống tinh thần. Hành động chìa tay vào mặt tôi lúc ấy, đơn giản chỉ là ông muốn quệt lên trán tôi một vệt phẩm màu, để ban phước.
Một lần khác, tôi đưa một ông sếp đi thăm mấy ngôi đền Hindu và Phật giáo, nhân ông đi công tác ngang qua ấn Độ. Chuyến tham quan vui vẻ, người hướng dẫn lẫn người đi chiêm bái đều hài lòng. Chỉ có điều, sau khi ra khỏi một ngôi đền, ông đứng trước bậc thềm, vừa xỏ lại đôi giày vừa ngập ngừng hỏi như không tin vào điều ông mới nhìn thấy: Sao đền chùa ở đây nó lại vẽ cả hình thập ngoặc phát xít?
Tất nhiên tôi đã giải thích ngay cho ông về cái chữ vạn (swastika), một chữ thiêng của người Aryan, sau này thành thiêng liêng đối với nhiều tôn giáo như Hindu, đạo Phật, đạo Jain và việc vì sao nó lại bị sử dụng thành chữ thập ngoặc phát xít... Nhưng từ đó những chuyện lúng túng khi bất ngờ va phải văn hóa Ấn Độ và đời sống Ấn Độ khiến tôi nung nấu ý tưởng phải làm gì đó giúp cho những người đến sau. Việt
Tôi đã tận dụng thời gian để góp nhặt kiến thức về Ấn Độ trong một thời kỳ dài sau đó. Sáu năm trời dọc ngang khắp các vùng miền trên tiểu lục địa ấn Độ. Nhiều năm sau đó ở các nước khác, nhưng vẫn tiếp tục đề tài, tận dụng những phương pháp của các nước mà soi chiếu ngược trở về ấn Độ. Tự nguyện xâm nhập vào văn hóa Ấn Độ giống như tự nguyện nhảy xuống biển. Cả một đại dương văn hóa khiến cho ta càng bơi càng không thấy bờ. Tôi đã choáng váng mất mấy năm đầu trước một đất nước quá xa lạ. Khác hẳn cảm giác sau này khi tôi lần đầu đến Trung Quốc, cứ như mình trở về nhà sau một chuyến đi dài hàng trăm năm. Trước Ấn Độ ta thấy mình thật nhỏ bé. ở đó cái gì cũng to, người to tướng, da ngăm đen và da trắng bóc pha trộn; nhà to, đền đài cung điện thành quách... cho đến cây trái đều to. Hình như người ấn tư duy cái gì cũng lớn, cũng mang tính toàn cảnh bao quát. Lúc không trầm tư mặc tưởng ù trì thì hành động cũng hoành tráng... Còn bí ẩn thì không cần phải nói nhiều, tư tưởng ấn Độ, tâm trạng Ấn Độ là thứ mà càng tìm hiểu lại càng không hiểu nổi. Dường như vậy.
Người ta có thể đi thăm một đất nước bất kỳ trong ít ngày, trở về viết được một bài báo bài bút ký dày dặn. Tôi thì phải sau bốn năm ở Ấn Độ mới dám viết truyện ngắn đầu tiên, tìm cách lý giải cho mình và cho độc giả về tính cách ấn Độ. Và bây giờ, sau hai chục năm, sau khi ở Ấn Độ và qua nhiều nước Âu - Mỹ tiếp tục nghiên cứu về ấn Độ, tôi mới tập hợp những bài viết thành một cuốn sách mang tính biên khảo. Đây là kết quả của những nghiên cứu, những chuyến đi thực địa, những điều lượm lặt từ sách vở và từ những cuộc đàm đạo với các bậc đạo sư, các vị học giả, những cuộc cùng ăn cùng ở cùng làm với người bình dân ấn Độ. Có những điều khi nghe dân chúng nói, về đối chiếu lại thấy có sai khác, phải sử dụng đến trực giác, thực nghiệm và lý thuyết để phân định. Tuy vậy, như đã nói ở trên, Ấn Độ là như thế mà không phải như thế. Ta đã chấp nhận bơi giữa đại dương thì cũng phải chấp nhận càng bơi càng khó thấy bờ.
Những điều tôi ghi lại ở đây, chỉ nhằm giúp cho ai đó muốn có chút kiến thức nhập môn về ấn Độ. Đại dương Ấn Độ đã được đưa vào trong một cái chai nhỏ. Hay là như một nhà báo Việt
Nói tóm lại, tôi mong muốn cuốn sách này có ích cho những ai nhập môn Ấn Độ học hoặc lần đầu tiên đến ấn Độ. Họ sẽ không lặp lại kỷ niệm vụng về của tôi hai mươi năm trước. Khi một bàn tay thiện chí chìa về phía ta, ta không lo sợ mà gạt phắt nó ra.
MỘT ĐỜI NGƯỜI HINDU
Đôi nét tập tục
Bốn thời kỳ của đời người
Người theo đạo Hindu từ thời cổ đã chia cuộc đời một người đàn ông thành bốn thời kỳ. Lối sống ấy, trải qua nhiều thế kỷ chịu ảnh hưởng của Hồi giáo và của người Anh, đã phai nhạt và ngày nay không tồn tại nữa.
Brahmachrya (độc thân, từ bé cho đến 25 tuổi): đây là thời kỳ đầu tiên chàng thiếu niên, sau khi được làm lễ đeo sợi dây thiêng, rời gia đình để đi học. Trường học (gurukula) thường là những căn lều cỏ giữa rừng hoặc nơi xa xóm làng. Tại đó, thầy giáo sống cùng với gia đình mình và đám môn sinh. Môn sinh không bị phân biệt vị trí xã hội, phải chăm sóc thầy mình như cha đẻ và làm mọi công việc lao động chân tay ở trường. Môn sinh được học thần chú Gayatri (kinh cầu), học yoga, nghiên cứu các bản kinh, nghệ thuật, khoa học và học cách sống đời giản dị, tự kỷ luật thanh đạm. Họ được rèn giũa để phát ngôn chân thật, làm việc mà không quên tinh thần Dharma, phục vụ người cao tuổi, kính trọng cha mẹ, sư phụ và khách quý như kính trọng thần thánh.
Grahasthya (làm chủ gia đình): sau khi hoàn tất việc học hành, môn sinh trở về nhà, lập gia đình. Hôn nhân không chỉ là một sự thỏa thuận mà là một bước thiêng liêng trong sự phát triển tinh thần của con người. Người vợ là Ardhangini, hay là một nửa của người chồng, cho nên không có một nghi lễ tôn giáo nào được chồng thực hiện mà lại thiếu người vợ. Người chủ gia đình phải thực hiện đạo đức tốt, làm ra tài sản vật chất, được phép hưởng đời sống dục lạc với người bạn đời của mình và đạt tới giải thoát bằng cách tuân theo những quy tắc đạo đức. Thời kỳ thứ hai này được coi là quan trọng nhất trong bốn thời kỳ. Người chủ gia đình kiếm sống phù hợp với nguyên tắc đạo đức và phải dành 1/10 thu nhập vào việc từ thiện. Anh ta phải lo việc an cư bằng cách xây một căn nhà cho vợ. Rồi anh ta có bổn phận chăm sóc, giáo dục con cái, sau đó dựng vợ gả chồng cho chúng. Thực hiện những nghĩa vụ tinh thần và nghĩa vụ xã hội, vượt qua mọi thử thách khó khăn mà không đi chệch tinh thần Dharma giúp cho người đàn ông trở thành người cao quý.
Vanaprastha (hưu trí): người đàn ông bước sang thời kỳ thứ ba, lúc con cái đã có gia đình riêng và tự lập. Đây là lúc cặp vợ chồng trung niên được nghỉ ngơi, tức là đã đến lúc chấm dứt những ràng buộc và ham muốn trần tục, lui về cuộc sống bình yên của thiền định, tập trung và theo đuổi những mối quan tâm về tinh thần.
Sanyas (lánh đời): thời cổ, đây là lúc người đàn ông từ bỏ mọi ham muốn, mọi nhu cầu, không dùng đến tiền bạc và xa lánh cõi tục. Họ sống nhờ cúng dường và hoa quả trong rừng, dành hết thời gian vào việc thiền định. Lúc này, họ được gọi là Jivanmukta - người đã được giải thoát khỏi cuộc sống bình thường.
Phần lớn hôn nhân của người Hindu là do cha mẹ sắp đặt, mặc dù ngày nay đã có thay đổi trong những thành phố lớn. Việc trai gái tự quyết việc hôn nhân của mình bị xem là không đúng đắn. Ngày nay, do sự phát triển của giáo dục hiện đại, trai gái có dịp gặp nhau, khác với thời xưa, họ chỉ biết mặt nhau trong đám cưới, thậm chí đêm tân hôn, chú rể vén mạng cô dâu lên thì mới lần đầu tiên nhìn thấy nhau. Đã có nhiều truyền thuyết về việc đánh tráo cô dâu trong các nghi lễ trước đám cưới, phải đến đêm tân hôn mới phát hiện ra.
Việc dạm hỏi do nhà gái thực hiện, thông qua người làm mối. Thời xưa, người làm mối thường là giáo sĩ hoặc một người thợ cắt tóc, nhưng ngày nay có thể là một người bạn chung của hai gia đình. Một khi bắt đầu thỏa thuận, vị giáo sĩ điều khiển và xem tử vi cho hai người. Nếu tử vi không hợp nhau, cuộc hôn nhân bị coi là không xuôi xẻ.
Lễ đính hôn (tilak) dù ít dù nhiều được coi là hợp thức hóa cuộc hôn nhân sắp tới. Chỉ có họ hàng và bạn bè thân thiết được mời dự lễ đính hôn. Tại buổi lễ, giáo sĩ ấn định ngày tháng và thời gian chính xác cho lễ thành hôn, sau khi đã xem xét những sao có tác động trực tiếp. Đến ngày cưới, chú rể ngồi trên một con ngựa trắng, đi trong đoàn gồm các nhạc công, bạn trai và đàn ông trong gia đình mình sang nhà cô dâu. Trong một số cộng đồng và một số vùng, nhìn chung phụ nữ không được tham gia đám rước rể này. Mọi nghi lễ được tiến hành ở nhà cô dâu và cô không được ra khỏi nhà trong suốt thời gian làm lễ (có khi kéo dài nhiều ngày).
Chú rể và đám bạn bè thân thiết được bước vào phòng làm lễ, trong khi mọi người ăn uống thoải mái ở phòng khác. Chú rể được chào đón nồng nhiệt ngay từ khi mới bước chân đến cửa. Nghi thức cầu nguyện trước cửa (dwara-puja) là phần quan trọng của lễ cưới. Chú rể được quệt một vệt đỏ lên trán. Những ngọn đèn được khua khua trước mắt chú rể để chúc phúc.
Lễ cưới chính thức kéo rất dài, thường bắt đầu từ chiều tối và kéo qua nửa đêm. Phòng cưới trang hoàng rất nhiều hoa và nhiều màu rực rỡ. Chú rể và cô dâu trang phục lộng lẫy, ngồi xếp bằng cạnh nhau trước ngọn lửa thiêng. Giáo sĩ ngồi một bên ngọn lửa, miệng đọc những câu thơ thần thánh. Cha mẹ cô dâu ngồi ở phía bên kia.
Trước khi bắt đầu lễ cưới, người ta cúng thần đầu voi mình người Ganesha, vị thần xua tan mọi trở ngại. Cô dâu vẫn luôn luôn che mạng. Một mảnh vải thiêng, đầu này được buộc vào áo chú rể, đầu kia buộc vào áo cô dâu. Sau đó cha cô dâu cầm tay con gái đặt vào tay chú rể và đọc kinh cầu phúc. Chú rể chập bàn tay mình vào tay cô dâu, giữa hai bàn tay là lá cây mehendi đã nghiền nát. Rồi hai bàn tay được quấn một mảnh vải và lấy dây quấn xung quanh. Trong suốt lễ cưới, vào những thời điểm nhất định, người ta nhắc cô dâu chú rể rẩy bơ tinh khiết, gạo, muối... vào ngọn lửa. Cô dâu chú rể đóng vai trò thụ động trong buổi lễ, mặc dù họ thường họa theo những câu kinh do giáo sĩ đọc.
Hôn nhân được chính thức hóa lần cuối khi cô dâu chú rể cùng nhau đi bảy vòng quanh ngọn lửa, tượng trưng cho Thần Lửa Agni, vị thần trung thành và thẳng thắn nhất trong tất cả các vị thần. Ngày hôm sau là lễ vu quy, cô dâu được tiễn về nhà chồng để bắt đầu một cuộc sống mới. Thời xưa, đám cưới kéo dài hơn một tuần, nhưng ngày nay chỉ còn vài ba ngày mà thôi.
Đám cưới có rất nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào các vùng đất, các cộng đồng và các đẳng cấp.
Người Hindu chính thống duy trì nhiều hình thức nghi lễ ma chay, tùy thuộc vào vùng đất và tầng lớp xã hội. Một người mộ đạo khi gần đất xa trời luôn mong muốn được trút hơi thở cuối cùng bên dòng sông Hằng linh thiêng, trong thành phố cũng linh thiêng là Varanasi (còn gọi là Benares), bởi tin rằng chết như thế là được rửa sạch mọi tội lỗi. Người chết được tắm trong nước sông Hằng, được xức nước thơm, được cuốn trong vải trắng (phụ nữ được cuốn vải đỏ) rồi được đặt trong cáng gỗ, khiêng đến bãi hỏa táng. Giáo sĩ và đoàn người đưa tang vừa đi vừa đọc câu kinh: Ram Nam Satya Hai (Thánh Rama là Chân lý), mọi người họa theo: He Ram, he Ram... Trường hợp người chết là vua chúa hoặc giáo sĩ lang thang, thi thể được cáng đi ở tư thế ngồi.
Người gần gũi nhất về huyết thống, thường là con trai trưởng, là người châm lửa vào giàn hỏa táng. Công việc này rất quan trọng, bởi vì người châm lửa hỏa táng chính là người thừa kế hợp pháp. Giáo sĩ chủ tang đọc những câu kinh Veda (văn vần) trong suốt lễ tang. Ngày hôm sau, người ta sẽ lấy tro, mang đến thành phố Haridwar, đầu nguồn sông Hằng, thả tro xuống. Sau lễ hỏa táng là một thời kỳ 12 ngày lễ tang. Đồ gỗ trong phòng khách được dẹp hết, tất thảy tang quyến và khách khứa đều ngồi trên nền nhà. Đây là thời gian để họ hàng bạn bè đến chia buồn.
Hàng năm gia đình định ngày tưởng niệm người chết. Vào ngày này họ hàng đến cầu cho linh hồn người chết được yên nghỉ, gọi là lễ cúng (Shraad).
Đây là một hệ thống tập tục cầu cúng cho người chết trong gia đình, dựa theo các bản kinh Veda. Có thể đây cũng là hình ảnh rõ ràng nhất của đạo Hindu từ thời đại Veda còn lại cho đến ngày nay. Khi trong nhà có người chết, người con trai trưởng phải đứng ra làm lễ cúng tế và hỏa táng để linh hồn người chết có thể gặp gỡ tổ tiên. Nếu không cúng, linh hồn người chết có thể trở thành ma quấy nhiễu. Lễ cầu cúng diễn ra trong mười một ngày, lên đến đỉnh điểm vào ngày thứ mười hai. Các giáo sĩ được ăn giỗ và được ban lộc, nhiều khi là những món quà có giá trị.
Bên cạnh việc cúng người chết, còn có việc cúng tổ tiên vào đầu tháng hoặc mỗi năm một lần. Ngày hôm ấy vị giáo sĩ Bà La Môn được coi là hiện thân của tổ tiên và được mời ăn giỗ. Thức ăn còn được đem ra mời bò, quạ... Lễ cúng làm bên bờ những con sông thiêng, tại những trung tâm như Varanasi hoặc Gaya, là có ý nghĩa nhất trong việc làm cho linh hồn người chết mãn nguyện.
Sadhu (du sĩ) còn có khi được gọi là sanyasi, hoặc thầy yoga. Du sĩ có một vị trí đặc biệt trong đời sống xã hội Hindu giáo. Đó là một người đã từ bỏ đẳng cấp, địa vị xã hội, tiền bạc và quyền lực, lên đường tìm kiếm Đại ngã Phổ quát (Linh hồn Vũ trụ) để đạt đến mức độ hòa nhập vào đó. Vì vậy, du sĩ khác với giáo sĩ chính thống ở chỗ họ coi từ bỏ đời sống vật chất cao hơn mọi nghi lễ thờ cúng.
Khái niệm Sadhu bắt nguồn từ những hình dung về thần Shiva từ cổ đại, mái tóc dài được búi hoặc tết, râu cũng để dài không cắt và tết lại, cơ thể được bôi tro bếp. Như đã nói ở trên, Sadhu không còn thuộc về một đẳng cấp hoặc một tầng lớp xã hội nào. Những du sĩ như vậy có nhiều đóng góp vào việc phát triển văn hóa, nghệ thuật nói chung, đặc biệt là âm nhạc, thơ ca, kiến trúc... Họ có ảnh hưởng và tạo nên một thế giới riêng với những chuyến đi không ngừng từ thánh địa này sang thánh địa khác, mang theo tượng thần, ca hát, ngâm thơ, đàm đạo triết học với nhau...
Các du sĩ thường dùng tro bếp hoặc bột gỗ đàn hương vẽ lên trán ba vạch, ngang hoặc dọc, tượng hình cây đinh ba của thần Shiva, hoặc là những dấu hiệu của các giáo phái khác nhau. Phần thân trên của họ bôi tro bếp, với những dấu, những vạch và ký hiệu nhiều vẻ. Sadhu đeo tràng hạt quanh cổ, có thể cầm theo những cây đinh ba bằng kim loại, những bình nước bằng đồng và những tràng hoa.
Shaivite Sadhu là những du sĩ tín đồ của thần Shiva, chia làm mười giáo phái. Phái Dasanami (giáo sĩ có mười tên) có mười nhánh rải rác khắp ấn Độ. Mỗi nhánh lại có một đội quân có vũ khí gọi là Nagas. Họ theo tinh thần Tantra và Shakti, ăn thịt, dùng chất kích thích và thường bị phê phán vì tập quán phong tình. Phái Gorakhnathi đeo hoa tai rất to. Phái Aghori Yogi khét tiếng vì những nghi lễ liên quan đến người chết. Phái Lingayat tập trung thờ tượng dương vật của thần Shiva.
Vaishnavite Sadhu là những du sĩ thờ thần Vishnu, hình thành sau giáo phái Shaivite. Họ thường được gọi là Vairagi (lánh đời), là thành viên của những trường phái Bhakti (dâng hiến) khác nhau. Họ không theo nếp khổ hạnh cực đoan như phái Shaivite. Dấu hiệu đặc trưng trên trán họ là chữ V màu trắng, ở giữa có một vạch trắng hoặc đỏ. Họ luôn mặc đồ màu trắng và mang tràng hạt cây tulsi. Không giống như mọi người theo đạo Hindu, khi chết được hỏa táng, các du sĩ thường được mai táng trong tư thế ngồi. Nơi chôn cất du sĩ trở thành nơi thờ họ.
Địa vị của phụ nữ trong xã hội luôn thể hiện tầm cỡ lớn hay nhỏ của một nền văn hóa hoặc của một tôn giáo. Quan niệm như vậy, người theo đạo Hindu cho rằng phụ nữ Hindu thường có được địa vị cao hơn so với phụ nữ các tôn giáo khác.
Phụ nữ có thể đạt đến trình độ học vấn cao nhất và trong lịch sử có nhiều phụ nữ là nhà tiên tri hoặc triết gia. Đến thăm nhà một người Ấn Độ hiện nay, xin hãy thận trọng, bởi vì bà nội trợ trong nhà rất có thể là người có học vị tiến sĩ, nhưng sau khi lấy chồng, tự nguyện lui về làm việc nhà. Từ cổ đại, bà Gargi, vợ của Mandanamishra, đã được bổ nhiệm làm chánh án nhờ trình độ học vấn uyên bác. Những bà hoàng như Kaikeye đã giúp chồng rất nhiều trong những trận chinh chiến.
Thời ấy, phụ nữ không bị tảo hôn. Họ được quyền chọn chồng và có thể lấy chồng khác đẳng cấp, khác dân tộc. Cũng có tình trạng đa thê, nhưng chủ yếu là trong tầng lớp vua chúa, hoàng thân, những người coi việc cưới công chúa của các vương quốc láng giềng như một thái độ chính trị và thắt chặt bang giao.
Một người đàn bà được coi là hiện thân của nữ thần (Shakti) và người đàn ông (Shaktiman) bị coi là chưa hoàn thiện nếu không có người đàn bà bên cạnh. Ngay cả các vị thần cũng vậy. Mỗi một vị nam thần trong nhóm Tam thần đều có những nữ thần của mình, đó là Sarasvati (Thần Học Vấn, vợ Brahma), Laksmi (Thần Tài Lộc, vợ Vishnu), Parvati (Thần Quyền Lực, vợ Shiva). Tất cả nghi lễ, đặc biệt là lễ tết cầu phúc, do một người đàn ông đứng ra thực hiện, đều bị coi là chưa hoàn chỉnh nếu không có người vợ tham gia. Xúc phạm một người phụ nữ bị coi là xúc phạm Đấng Toàn Năng.
Theo thời gian, khi người ngoại bang đến xâm lược ấn Độ, tàn sát dân chúng và sự phân biệt đẳng cấp trở nên cực đoan, phụ nữ theo đạo Hindu bị mất vai trò độc lập, phải chịu phụ thuộc vào đàn ông. Nhiều hủ tục vẫn tồn tại đến ngày nay như hôn nhân phải do cha mẹ sắp đặt, phụ nữ phải có hồi môn mới lấy được chồng, phụ nữ bị nhà chồng bạc đãi, bé gái sơ sinh bị thủ tiêu...
Từ đầu thế kỷ XIX, bắt đầu một phong trào tìm kiếm những giá trị tinh thần và định giá lại những giá trị cũ. Những nhà cải cách như Ram Mohan Roy, Ishwar Chandra Vidyasagar, Swami Vivekananda, Mahatma Gandhi truyền bá tư tưởng cần thiết thanh lọc khỏi Hindu giáo những lễ nghi, những giáo điều, trong đó có cả sự bất bình đẳng đối với phụ nữ.
Phụ nữ trong xã hội Ấn Độ hiện đại có được nhiều quyền tự do (trừ ở nông thôn hoặc vùng sâu vùng xa, nơi hủ tục vẫn tồn tại) và có quyền thừa kế tài sản.
Sati
Sati là tục vợ chết theo chồng bằng cách nhảy vào giàn hỏa táng đang thiêu xác chồng. Sati có thể là do người vợ tự nguyện, cũng có thể bị nhà chồng bắt ép làm theo tục lệ. Ban đầu hủ tục này xuất hiện trong tầng lớp chiến binh Rajput ở miền tây bắc ấn Độ. Dưới thời Anh cai trị, tục Sati bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Không một bản kinh Hindu nào nhắc đến hủ tục này, dù chỉ là bóng gió. Theo những câu kệ trong Veda về thủ tục tang ma, sau khi làm lễ cho người vợ góa ngủ bên xác chồng, người vợ được phép lấy một người anh (hoặc em trai) của người chồng quá cố.
Các sử thi cũng không nhắc đến tục Sati. Trong Ramayana, khi vua cha của Rama qua đời, không ai trong số ba bà vợ phải chết theo. Cũng thế, bà vợ của vua khỉ
Trong Mahabharata cũng vậy, những người vợ của một trăm anh em Kaurava không nhảy vào giàn hỏa táng khi chồng của họ bị giết trên chiến trường.
Một số nhà Ấn Độ học cho rằng, tục Sati xuất phát từ việc nàng Sati, vợ của Shiva, tự tử vì bị vua cha Daksha mắng chửi.
Chỉ có một hành động liên quan đến tục Sati được ghi lại trong sử thi Mahabharata là việc Madri, vợ của vua Pandu, chết theo chồng trên giàn hỏa táng. Nhưng đây là hành động xuất phát từ việc Madri tự trách mình, chỉ vì Pandu ân ái với nàng mà bị chết, dù hai người đã được cảnh báo từ trước. Đây cũng không phải là tục chết theo chồng, bởi vì vợ cả của vua Pandu là Kunti đã không nhảy vào giàn hỏa táng. Bà sống cùng con cháu đến già.
Năm 1829, chính quyền Anh chính thức cấm hủ tục Sati sau những nỗ lực lâu dài của Raja Ram Mohan Roy, một nhà lý thuyết học Hindu. Nước Cộng hòa Ấn Độ cũng đặt tục Sati ra ngoài vòng pháp luật, nhưng nó vẫn tồn tại rải rác đây đó ở nông thôn và vùng sâu vùng xa. Một số nhà nghiên cứu cho rằng hủ tục này bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại. Bên cạnh Hy Lạp, những giàn thiêu như Sati có thể thấy ở cộng đồng người Đức, người Slav. Có thể tục Sati đến Ấn Độ vào khoảng năm thứ 1 Công nguyên cùng với người Kushan, chủng tộc Trung á cai trị vùng tây bắc ấn. Sati chưa hề tồn tại ở miền nam ấn. Ngay cả ở bắc ấn, nó hầu như chỉ tồn tại trong tầng lớp chiến binh Rajput, con cháu của các tộc người Kushan, Saka và Pathan.
Rajput là những chiến binh dũng cảm và cuồng tín, luôn luôn chiến đấu chống lại những hoàng đế đạo Hồi. Khi không có giặc, họ quay lại đánh lẫn nhau. Những người vợ góa còn trẻ của họ thường giữ gìn tiết hạnh, trung thành với chế độ một vợ một chồng. Tầng lớp Rajput duy trì tục vợ chết theo chồng, như vậy cộng đồng không phải chăm sóc những cô vợ góa. Người vợ góa cũng không phải chịu nguy cơ có thể rơi vào tay giặc và bị xâm hại. Trong chiến đấu, khi thành bị vây hãm và sắp bị chiếm, những dũng sĩ Rajput xông ra quyết tử, còn vợ con của họ cùng lúc nhảy vào giàn hỏa táng. Sử sách ghi lại có những cuộc tự tử tập thể, hàng vạn người cùng nhảy vào giàn thiêu.
VẬT THIÊNG VỚI NGƯỜI HINDU
Tràng hạt Rudraksha
Người Hindu thường dùng hạt rudraksha để làm tràng hạt. Đó là hạt của loại cây có tên khoa học là elaeocarpus ganitrus, tìm thấy trên dãy
Rudraksha: hạt tròn và to, thường dùng làm thuốc và làm tràng hạt để cầu nguyện.
Bhadraksha: kích thước hạt nhỏ hơn, tròn, ít được ưa chuộng hơn loại trên.
Indraksha: gần như hình bầu dục, giống hạt lạc.
Sahastraksha: hình dáng gần giống loại Indraksha, nhưng hơi dẹt.
Hạt được phân loại theo số lượng những khía và những cái miệng (mukha, thực ra là những lỗ nhỏ trên hạt, có thể gọi là mắt), sắp xếp từ trên xuống dưới. Mỗi hạt thường có từ một đến mười bốn mắt. Hay tìm được nhất là loại có năm mắt (pancha mukha). Rất khó kiếm loại có từ một đến bốn mắt, cũng như từ sáu đến mười bốn mắt - những loại này thường đắt tiền hơn.
Hiếm có nhất là loại hạt chỉ có một mắt, người nào sở hữu được nó thì sẽ thoát khỏi vòng luân hồi sinh diệt. Loại hạt hai mắt là vật thiêng đối với thần Shiva và những đồ đệ của thần. Loại ba mắt tượng trưng cho Tam thần (Brahma, Shiva, Vishnu) và những tín đồ của họ. Loại bốn mắt liên quan đến thần Brahma và bốn bản kinh Veda. Loại năm mắt là vật thiêng của Shiva. Sáu mắt là vật thiêng của Kartikeya. Loại bảy mắt đeo vào để làm vui lòng nữ thần Laksmi. Loại tám mắt dành cho thần Ganesha và người đeo nó luôn luôn thành công. Hạt chín mắt tượng trưng cho chín shakti (nữ thần Durga). Loại hạt mười mắt tượng trưng mười hướng và đặc biệt có lợi nhuận. Hạt mười một mắt là vật thiêng của thần Rudra, mười hai mắt là của Mặt Trời, mười ba mắt tiêu trừ mọi cái ác, mười bốn mắt thì tượng trưng cho mười bốn hiện thân và tiêu trừ tất cả cái ác.
Các loại hạt này thông thường có bốn màu: trắng, đỏ thẫm, vàng, đen. Loại màu thứ nhất và thứ hai hiếm gặp nhất. Chúng được quý hơn không chỉ vì hiếm mà còn vì vị trí xã hội: màu trắng là của đẳng cấp Bà La Môn, đỏ của đẳng cấp vũ sĩ, vàng của thương nhân và chúa đất, đen của thợ thuyền.
Thần thoại kể rằng hạt Rudraksha được tạo thành từ nước mắt của Rudra, một hiện thân của thần Shiva, do đó nó có quyền lực y học, sức mạnh tinh thần và quyền lực siêu nhiên. Mỗi loại trong số mười bốn loại hạt có một vị thần ngụ và có giá trị riêng. Hạt càng nhỏ thì càng có giá trị chữa bệnh. Hạt có lỗ tự nhiên để xuyên sợi dây qua là loại hạt thiêng nhất.
Có những nghi thức và tập quán về việc đeo tràng hạt thế nào để đạt kết quả mong muốn. Việc tiếp xúc của tràng hạt với cơ thể là thiết yếu để đạt được sự mầu nhiệm. Có thể đeo riêng một hạt hoặc đeo cả tràng hạt. Tràng hạt Rudraksha được coi là giúp con người khỏe mạnh và sung túc.
Tràng hạt thường có hai mươi bảy hạt, năm mươi tư hạt hoặc một trăm linh tám hạt. Trong khi ngồi thiền, người ta vừa đọc kinh vừa lần tràng hạt.
Bên cạnh việc phân loại tràng hạt như ở trên, người Hindu mộ đạo coi trọng những loại hạt khác thường. Để thử xem hạt có thật hay không, người ta bỏ hạt vào một cốc nước, hạt chìm xuống đáy là hạt thật. Buôn bán tràng hạt rất phát triển ở những thành phố thiêng như
Salagrama là một hòn đá nhỏ, thực ra là hóa thạch của một loại ốc (hoặc mai cá mực) đã tuyệt chủng, được các giáo sĩ Bà La Môn cổ đại coi là hiện thân của thần Vishnu. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc thờ cúng của một giáo sĩ Bà La Môn, được coi là hình hài đang sống ở trần gian của thần Vishnu. Bản kinh Atharva Veda có nhắc đến hòn đá Salagrama khi viết rằng trong nhà của bất cứ một người Bà La Môn nào mà không có Salagrama thì cũng ô uế như một bãi tha ma.
Salagrama được tìm thấy ở sông Gundak thuộc
Salagrama trở nên thiêng vì sự tích Shani có lần đến thăm khi thần Vishnu đã tự hóa thành một ngọn núi. Shani tức giận hóa thành một con giun (Vajrakita) và quấy nhiễu Vishnu mười hai năm ròng. Sau thời gian ấy, Vishnu trở lại hình hài ban đầu và truyền rằng từ đó trở đi những hòn đá của trái núi này phải được thờ cúng như là hiện thân của thần.
Salagrama được cất giữ tại nhà, được bọc trong một miếng vải, thường xuyên được tắm rửa và xức nước thơm, thỉnh thoảng còn được để cho nước nhỏ giọt lên. Mặc dù hòn đá này là hiện thân có thể nhìn thấy được của thần Vishnu, nó còn là linga của thần Shiva, và là một hình dạng của Quả trứng Vũ trụ.
Tượng dương vật của thần Shiva (Thần Hủy Diệt và Tái Tạo) tượng trưng cho sức sáng tạo của thần Shiva, sức sáng tạo thiêng liêng, được phái Shaivite thờ khắp nơi. Tượng linga đi liền với tượng yoni (sinh thự khí nữ), tượng trưng cho sự hòa hợp của tự nhiên và năng lượng vũ trụ. Tượng này thường được làm bằng chất liệu đá, nhưng ở vùng đất lạnh phía bắc Ấn Độ (đền Amarnath ở vùng
Linga có thể cố định (achal) hoặc có thể di chuyển được (chal). Linga có thể di chuyển thì được đặt tại điện thờ của gia đình, làm bằng đất nung hoặc bột mì, sau khi cúng thì bỏ đi. Nó có thể là vật trang sức ở dây chuyền, hoặc trang trí khắp nơi. Linga cố định thì được đặt trong đền thờ. Nhiều khi đền thờ chỉ cần có tượng linga mà không có tượng thần Shiva.
Trong đền thờ, người ta thường sắp xếp cho nước liên tục nhỏ giọt xuống đầu linga. Trong các buổi cầu kinh, linga được rửa, được quàng tràng hoa xung quanh, được tưới sữa và bơ tinh khiết, được rắc gạo và một vài thứ thực phẩm vào. Linga có thể được tạo hình, hoặc có thể là hòn đá hình trụ sẵn có lấy từ sông suối về, gọi là bana-linga.
Bò - con vật thiêng
Người nước ngoài đến Ấn Độ luôn lấy làm lạ khi thấy bò thả rông trên đường phố, có khi làm cản trở giao thông, bò xông vào quấy nhiễu những quầy hoa quả và hàng quán. Dần dần người ta vỡ lẽ, bò là con vật được bảo vệ. Theo tín ngưỡng Hindu, bò (cái) được coi là con vật thiêng, là biểu tượng của Mẹ - Trái Đất. Với những người di cư đến đây từ cổ đại và làm nghề nông, bò là thành viên gắn bó của gia đình. Bò cung cấp cho họ sữa, các sản phẩm từ sữa và những thứ thiết yếu như dầu đốt đèn (từ bơ) và phân bón. Thời ấy, người Aryan cầu cúng rất nhiều thần linh thông qua lễ yagna (từ chữ yaj tức là cúng). Ban đầu đó chỉ là hình thức cúng riêng tư đơn giản, dần dần nó trở thành lễ cúng chung, bao gồm cả việc gọi Thần Lửa Agni bằng cách làm lễ xếp củi khô lên ban thờ, thường xuyên giữ lửa bằng cách rẩy bơ lỏng vào lửa. Thông qua Agni, người ta cúng các món sữa, sữa chua và mật ong cho vị thần yêu thích của mình. Bò trở thành con vật thiêng vì nó cung cấp những thứ thiết yếu cho lễ cúng tế của giáo sĩ Bà La Môn và dân chúng.
Trong thần thoại, Kamdhenu là Thần Bò, được Krishna chăn dắt, suốt đời đi theo
Sau thời đại Sử thi, việc tế sinh giảm dần vì người theo đạo Hindu chuyển sang ăn chay - ảnh hưởng của đạo Phật và đạo Jain, đặc biệt là đối với tầng lớp giáo sĩ Bà La Môn và bình dân tự do. Dần dần bò được coi là Gaumata (Mẹ Bò), rồi Aditi (Mẹ của Các Thần). Việc phái Vaishna (tín đồ theo Vishnu) nổi lên trong đẳng cấp trung lưu sung túc và đẳng cấp thấp (thể hiện qua nhân vật
Như vậy, con vật thiêng phải là bò cho sữa (bò cái). Bò đực chỉ liên quan ở chỗ con bò Nandi đã là "phương tiện giao thông" của thần Shiva. Nhưng bò đực, nếu không dùng để làm sức kéo ở một số vùng nông thôn thì chỉ là con vật vô dụng, lang thang khắp nơi. Người Hindu cho rằng phân bò là thứ sạch sẽ, có thể dùng vào việc tẩy uế. Cho đến tận ngày nay, ở nhiều vùng nông thôn, công việc dọn dẹp vệ sinh đầu tiên của buổi sáng là dùng phân bò khô kỳ cọ lối vào nhà.
Chim công
Quốc điểu ấn Độ
Chim công chính thức được chính phủ Ấn Độ công nhận là quốc điểu từ năm 1963, nhưng đã là biểu tượng cao quý trong văn hóa Ấn Độ từ xa xưa. Hình ảnh công đã có trong một số di vật khai quật được ở hai thành phố cổ đại Mohenjodaro và
Chim công là con vật thiêng trong thần thoại ấn Độ. Nó là phương tiện giao thông cho thần Kartikeya (con trai thần Shiva) cưỡi lên, khi ông ở cương vị là tổng chỉ huy quân đội của các vị thần. Ngọc Hoàng Indra (đồng thời là thần mưa gió) cũng từng có lúc hóa thân thành chim công, một lý do vì sao mỗi khi có mưa, chim công xòe đuôi xòe cánh hân hoan múa lượn. Vị thần đa tình
Chim công cũng là hình tượng nổi bật và là nguồn cảm hứng của thi ca, hội họa, điêu khắc, ca múa ở Ấn Độ từ xưa đến nay.