logo

  • Trang chủ
  • Giới thiệu
    • Thư ngỏ
    • Khái quát về Trung tâm
    • Nhân lực Trung tâm
      • Thành viên Trung tâm
      • Cộng tác viên
    • Giới thiệu Khoa Văn hóa học
      • Khái quát về Khoa
      • Nhân lực của Khoa
  • Tin tức
    • Tin nhà (Trung tâm)
    • Tin ngành
    • Tin liên quan
  • Đào tạo - Huấn luyện
    • Các chương trình
    • Tổ chức và Hiệu quả
    • Đào tạo ở Khoa VHH
      • Chương trình đào tạo
      • Kết quả đào tạo
  • Nghiên cứu
    • Lý luận văn hóa học
      • LLVHH: Những vấn đề chung
      • VHH: Phương pháp nghiên cứu
      • VHH: Các trường phái - trào lưu
      • Loại hình và phổ quát văn hóa
      • Các bình diện của văn hóa
      • Văn hóa học so sánh
      • Vũ trụ quan phương Đông
      • Văn hóa và phát triển
      • VHH và các khoa học giáp ranh
    • Văn hóa Việt Nam
      • VHVN: Những vấn đề chung
      • Văn hóa cổ-trung đại ở Viêt Nam
      • Văn hóa các dân tộc thiểu số
      • Văn hóa Nam Bộ
      • Văn hóa nhận thức
      • Văn hóa tổ chức đời sống tập thể
      • Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân
      • Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
      • Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
    • Văn hóa thế giới
      • VH Phương Đông: Những vấn đề chung
      • VH Phương Tây: Những vấn đề chung
      • Quan hệ văn hóa Đông - Tây
      • Văn hóa Trung Hoa và Đông Bắc Á
      • Văn hóa Đông Nam Á
      • Văn hóa Nam Á và Tây Nam Á
      • Văn hóa châu Âu
      • Văn hóa châu Mỹ
      • Văn hóa châu Phi và châu Úc
    • Văn hóa học ứng dụng
      • VHƯD: Những vấn đề chung
      • VHH nghệ thuật
      • Văn hóa đại chúng
      • Văn hóa giao tiếp
      • Văn hóa du lịch
      • Văn hóa đô thị
      • Văn hóa kinh tế
      • Văn hóa quản trị
      • Văn hóa giáo dục - khoa học
    • Tài liệu phổ cập VHH
      • Văn hóa Việt Nam
      • Văn hóa thế giới
      • VHH ứng dụng
    • Tài liệu tiếng nước ngoài
      • Theory of Culturology
      • Vietnamese Culture
      • Applied Culturology
      • Other Cultures
      • 中文
      • Pусский язык
    • Thư Viện Số (Sách - Ảnh - Video)
      • Tủ sách Văn hoá học
      • Thư viện ảnh
      • Thư viện video
    • Các nhà văn hóa học nổi tiếng
  • Tiện ích
    • Dịch vụ Văn hóa học
    • Dịch vụ ngoài VHH
    • Trợ giúp vi tính
    • Từ điển Văn hóa học
    • Thư viện TT và Khoa
    • Tổng mục lục website
    • Tủ sách VHH Sài Gòn
    • Giải đáp thắc mắc
  • Thư giãn VHH
    • Văn chương Việt Nam
    • Văn chương nước ngoài
    • Nghệ thuật Việt Nam
    • Nghệ thuật thế giới
    • Hình ảnh vui
    • Video vui
  • Diễn đàn
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Nghiên cứu
  • Văn hóa Việt Nam
  • Văn hóa các dân tộc thiểu số
Thursday, 30 January 2020 13:34

Trương Thị Kim Thủy. Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong lễ hội Ok Om Bok

Người post bài:  Nguyễn Thị Tuyết Ngân

Additional Info

  • Tiêu đề:

    DẤU ẤN VĂN HÓA ẤN ĐỘ TRONG LỄ HỘI OK OM BOK
    NHỮNG GIÁ TRỊ CẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
    TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH

  • Tác giả:

    ThS. Trương Thị Kim Thủy

  • Chức danh:

    Khoa KHXH&NV, Trường Đại học Cần Thơ

Trương Thị Kim Thủy. Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong lễ hội Ok Om Bok

Khai thác lễ hội Ok Om Bok trong phát triển du lịch hiện nay theo kiểu “lối mòn” quảng bá văn hóa, đi đến lễ hội vì đông vui. Vì vậy, theo chúng tôi khi khai thác phát triển du lịch cho lễ hội Ok Om Bok cần chú ý khai thác yếu tố “thiêng” trong lễ hội. Yếu tố thiêng như “nước”, “mặt trăng” trong lễ hội Ok Om Bok cần có sự đầu tư và kết hợp chặt chẽ với nhiều sự kiện diễn ra trong lễ hội. Phải nâng cao được giá trị bảo vệ môi trường từ tín ngưỡng thờ thần “mặt trăng”, “mẹ nước” qua những nghi lễ cúng và những sinh hoạt đời thường của cộng đồng Khmer Nam Bộ.

Đôi nét về lễ hội Ok Om Bok

Lễ hội Ok Om Bok thường được tổ chức vào ngày 14 và 15 tháng Ka-Đâk (tức tháng 10 theo Phật lịch Nam tông). Nếu so sánh với lịch pháp của người Việt thì lễ hội diễn ra trong khoảng thời gian giữa tháng 11 dương lịch. Đây là khoảng thời gian chuyển từ mùa mưa sang mùa nắng – mùa gieo trồng sắp chấm dứt và mùa thu hoạch đang sắp bắt đầu.

Ngày đầu tiên của lễ hội (ngày 14 tháng Ka Đâk) sẽ diễn ra các hoạt động như trò chơi dân gian (kéo co, đập nồi, leo cột, nhảy bao, đẩy gậy, đi cà kheo,…), các môn thể thao (bóng chuyền, ném bi sắt,...) và đặc biệt là hội đua ghe Ngo. Không như những lễ hội khác, lễ hội Ok Om Bok có phần hội được diễn ra vào ban ngày và tiến hành trước những nghi lễ cúng trăng diễn ra vào ban đêm. Trong các hoạt động tổ chức ban ngày, đua ghe Ngo là một trong những nghi lễ đặc biệt làm nên đặc sắc riêng của lễ hội Ok Om Bok so với các lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ.

Ngày thứ hai của lễ hội Ok Om Bok, các nghi lễ chủ yếu diễn ra vào ban đêm. Trong số những nghi lễ này, quan trọng nhất là cúng trăng. Thời điểm tổ chức là ban đêm khoảng từ 19 giờ khi trăng tròn bắt đầu nhô lên khỏi ngọn cây. Lễ cúng trăng thường được tổ chức ở gia đình và tại các chùa hoặc các điểm cộng đồng trong phum sóc.

Các lễ vật cúng trăng, nhìn chung là những nông sản mà nông dân tự sản xuất ra được như: khoai môn, khoai mì, dừa tươi, chuối xiêm chín, các loại bánh làm từ chất bột gạo, nếp hoặc các loại trái cây, hoa quả đặc biệt, lễ vật quan trọng làm nên tinh thần của buổi lễ là cốm dẹp, nhang đèn, bó hoa tươi, salatho (cây bông),… và nước có hương thơm. Hình thức cúng trăng ở từng gia đình tuy đơn giản nhưng có ý nghĩa sâu sắc. Vào buổi tối ngày rằm, các thành viên quây quần cùng nhau chuẩn bị vật cúng trên một chiếc bàn, được đặt trước sân nhà. Khi mặt trăng nhô lên cao và thấy rõ nhất (không bị mây che hay khuất sau các cành cây) người cúng (thường là gia chủ) đứng quay mặt về phía mặt trăng khấn nguyện; các thành viên trong gia đình trải chiếu ngồi trước bàn cúng và cũng chắp tay trước ngực hướng về mặt trăng. Nghi lễ cúng trăng ở chùa hoặc điểm cộng đồng cũng tổ chức tương tự nhưng quy mô hơn so với các hộ gia đình vì nó mang tính cộng đồng của phum sóc. Vào buổi chiều ngày rằm, người dân trong phum sóc chuẩn bị vật cúng, chủ yếu là nông sản do họ tự trồng và thu hoạch được. Đến tối, trước khi vào lễ, các vị sư và phật tử làm lễ tụng kinh cầu an. Sau đó, mọi người tập trung ngồi ở những chiếc chiếu trải trước bàn cúng, chắp tay trước ngực hướng về phía mặt trăng khấn nguyện. Sau nghi lễ cúng trăng, tại gia đình và chùa đều tiến hành nghi lễ đút cốm dẹp. Người cao tuổi nhất trong gia đình hoặc vị Acha sẽ gọi những đứa trẻ đến xếp thành hàng và lấy một ít cốm dẹp cho vào lòng bàn tay đút vào miệng những đứa trẻ. Không chỉ đút cốm dẹp mà những đứa trẻ còn được đút kèm theo chuối, khoai,…

Việc đút thức ăn đầy miệng được người Khmer cho là thể hiện sự sung túc dư dả. Sau đó, những đứa trẻ sẽ được người lớn tuổi hỏi về ước nguyện của chúng và sẽ vỗ nhẹ vào lưng đứa trẻ ba lần và nói “con sẽ được như ý nguyện”[1]. Hai nghi lễ cuối cùng trong lễ hội cúng trăng (Ok Om Bok) là nghi lễ thả đèn gió (Bund Boong hos côm បុណ្យបង្ហោះគោម) và thả đèn nước (Bund Lôi Prôtíp បុណ្យបណ្តែតប្រទីប) vô cùng hấp dẫn. Đèn gió của người Khmer không quy định kích cỡ cụ thể. Đèn nhỏ nhất thường có đường kính khoảng 0,8m, cao khoảng 1,2m; còn đèn lớn nhất thường có đường kính 3m, cao khoảng 7m. Đèn được làm bằng chất liệu giấy quyến hoặc các loại giấy bóng dán kín. Phía dưới đèn là một khối trụ, người ta dùng dây chì thắt thành hình tổ nhện và dùng bông tẩm dầu lửa pha nhớt cặn để làm cháy hết lớp không khí bên trên lồng, tạo ra sự chênh lệch áp suất. Nhờ đó tạo ra một lực đưa lồng đèn bay lên cao. Thả đèn gió không chỉ tạo thêm không khí sôi nổi cho phần hội mà ý nghĩa sâu xa trong chuỗi nghi lễ cúng trăng là tạ ơn thần gió – một trong những vị thần quan trọng cùng thần mặt trăng cai quản mùa màng, đem lại mưa thuận gió hòa cho mùa màng tốt tươi. Mặt khác, nghi lễ thả đèn gió còn có ý nghĩa tống tiễn sự xui rủi, không may mắn đi nơi khác [Tiền Văn Triệu, Lâm Quang vinh 2015, tr.131]. Tuy nhiên, vì an toàn cho cộng đồng phum sóc, ngày nay nghi lễ này được hạn chế. Điều này đã phần nào làm giảm đi nét đặc sắc vốn có của lễ hội Ok Om Bok[2].

Bên cạnh nghi lễ thả đèn gió, người Khmer còn tổ chức thả đèn nước hay còn gọi là hoa đăng (Lôi Prôtíp). Đèn nước của người Khmer được làm theo nhiều kiểu khác nhau tuy nhiên vẫn phải đảm bảo có hai phần chính. Phần đế đèn, có thể sử dụng những vật liệu khác nhau như thân cây chuối, tấm xốp, thau. Phần thân đèn thường được làm mô phỏng hình nhà ông thiên, mô hình chính điện, mô hình hoa sen,… được làm bằng giấy, gỗ,… Trên mỗi đèn nước đều có một chén đựng bông gòn tẩm dầu dừa hoặc để đèn cầy và đốt lên khi thả. Những đèn nước lớn thường được chế tác rất công phu, trang trí thêm hoa, nhang, vật cúng[3]. Người Khmer thả đèn dưới nước để thể hiện lòng tôn kính, tạ ơn thần nước đã đem lại sự sinh sôi nảy nở cho con người. Đồng thời cũng thể hiện sự ăn năn, hối lỗi vì đã sử dụng nước để sinh hoạt đã làm tổn hại đến thần. Ngoài ra nghi lễ này còn gợi nhắc lại truyền thuyết thả hoa đăng trôi sông để dâng cúng đến dấu chân của đức Phật còn lưu giữ ở bến sông Nam ma Tea (Ấn Độ) [Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh 2015, tr.132].

Dấu ấn văn hóa Ấn Độ trong lễ hội Ok Om Bok

Phải chăng trước khi nhuộm màu Phật giáo Nam tông, lớp văn hóa Hindu giáo của người Ấn Độ vốn đề cao hai yếu tố thiêng là nước và lửa vẫn còn được lưu truyền, hòa quyện với văn hóa Phật giáo Nam tông cùng văn hóa bản địa của người Khmer Nam Bộ làm cho lễ hội cúng trăng Ok Om Bok này càng thêm đặc sắc.

Mặt trăng và nước là yếu tố đi đôi với nhau trong hoạt động nông nghiệp. Cả hai đều được tôn thành thần, riêng yếu tố nước còn được biết đến là “mẹ” - đối tượng linh thiêng ban nguồn sống đến người dân. Thủy triều dâng lên, rút xuống là do chu kỳ mặt trăng chi phối và cũng ảnh hưởng đến mùa màng. Trong lễ hội Ok Om Bok của người Khmer Nam Bộ và lễ hội Kartik Poornima cầu thần Mặt trăng của Ấn Độ; bằng nhiều nghi lễ khác nhau nhưng nhìn chung vẫn hướng về ý nghĩa là tỏ lòng biết ơn thần nước, mẹ sông và cũng gửi lời tạ lỗi đến vị thần này vì đã làm ô uế đến nguồn nước trong mọi sinh hoạt.

Ở Ấn Độ, sông Hằng với tên là Gaṅgā (tiếng Phạn và tiếng Hindi: गंगा Gaṅgā) được miêu tả là dòng sông thần thánh và được tôn sùng thành nữ thần. Trong các truyền thuyết và huyền thoại cổ xưa của Ấn Độ, sông Hằng được nhắc đến nhiều lần trong mối liên hệ với nhiều vị thần khác như Śhiva và Viṣhṇu. Vào thời trung cổ, hai nữ thần sông Hằng và sông Yamunā được khắc vào hai bên cổng vào của các ngôi đền Hindu giáo. Nữ thần sông Hằng thường được khắc họa trong hình dáng của một nữ nhân cưỡi cá sấu trắng, một biểu tượng cho sự nguy hiểm của chết chóc và sự sung túc của cuộc sống. Trong tâm thức tín đồ Hindu giáo, dòng sông này là nơi lưu xuất các nhánh sông thiêng. Họ tin rằng nước sông Hằng có thể hóa giải tội lỗi của mình và đạt đến sự giải thoát khỏi vòng luân hồi của sự sống và cái chết. Vào đầu mùa vụ, trước khi những hạt giống được gieo trồng, nông dân miền Bắc Ấn đặt lọ chứa nước sông Hằng vào một nơi đặc biệt trên cánh đồng để mong cầu một mùa bội thu[4]. Vì vậy, trong tất cả các lễ hội ở Ấn Độ đa phần đều gắn liền với nước từ địa điểm tổ chức đến những nghi thức thực hiện. Điển hình là lễ hội Chhat Puja cầu thần Mặt trời và lễ hội Kartik Poornima cầu thần Mặt trăng, diễn ra trong khoảng thời gian linh thiêng trăng tròn tháng Kartika; các nghi lễ đều thực hiện tại các sông hồ. Các tín đồ đều phải ngâm mình hành lễ tại các dòng sông để cầu nguyện vào khoảng thời gian thiêng là lúc mặt trời mọc, mặt trời lặn (lễ hội Chhat Puja) và lúc trăng tròn (lễ hội Kartik Poornima). Sau nghi lễ họ phải mang nước thiêng ấy về nhà để tiếp tục khấn nguyện. Đồng thời các vật phẩm gửi đến cầu xin các vị thần đều được thả trôi trên những dòng sông nơi họ tắm mình cầu nguyện vào thời khắc thiêng liêng.

Bên cạnh yếu tố nước, lửa cũng được tôn vinh là biểu tượng của thần thánh (thần lửa Agni), với ý nghĩa là tẩy uế và tái sinh. Theo nghiên cứu về văn hóa Ấn Độ của Đỗ Thu Hà, “tuy cùng có tính tẩy uế và tái sinh như nước nhưng lửa khác nước ở chỗ: lửa tượng trưng cho sự thấu hiểu, bằng ánh sáng và chân lý, đạt đến trạng thái thông tuệ siêu việt nhất, còn nước tượng trưng cho sự thanh tẩy dục vọng, hướng tới dạng thức trong sạch nhất, đó là lòng nhân từ. Trong tiếng Sanskrit, một ngôn ngữ cổ của Ấn Độ, “trong sạch” và “lửa” chỉ là một từ. Các mặt của biểu tượng lửa được thâu tóm trong giáo thuyết đạo Hindu. Giáo thuyết này đã dành cho ngọn lửa một tầm quan trọng lớn lao, đề cập đến mọi hình thức biểu hiện và chức năng của lửa: tồn tại ở cả ba cõi, giữ vai trò hấp thụ và hủy diệt. Trong Phật giáo, ngọn lửa thiêng của đạo Hindu đã được thay bằng ngọn lửa bên trong, nó đồng thời là tri thức xuyên suốt, là sự giác ngộ và sự hủy bỏ cái vỏ bọc bên ngoài mang tính chất hình thức của con người”[5]. Vì những ý nghĩa đó mà biểu tượng lửa luôn có mặt trong các nghi lễ và lễ hội của người Ấn Độ. Trong lễ hội Diwali, người Ấn Độ thắp sáng những ngọn đèn diyas hay nhiều ngọn nến với ý nghĩa chiến thắng xua đi bóng tối vây quanh trí tuệ của nhân loại. Trong lễ hội Chhat Puja cầu thần Mặt trời và lễ hội lễ hội Kartik Poornima cầu thần Mặt trăng cũng xuất hiện những ngọn lửa. Tín đồ Hindu giáo thắp những chiếc thuyền đèn trong nghi lễ cầu nguyện như là “phương tiện” tiếp cận nhanh nhất và hiển linh nhất của họ đến các vị thần.

Từ niềm tin ánh sáng trí tuệ của lễ hội có nguồn gốc Hindu giáo, dường như có mối liên hệ về nguồn gốc với lễ hội Ok Om Bok của người Khmer Nam Bộ. Theo tín ngưỡng đa thần, niềm tin vào những vị thần nguồn gốc Hindu giáo như thần nước, thần lửa vẫn được người Khmer lưu giữ, nhưng không thể hiện thành một vị thần hình dáng cụ thể để tôn thờ. Dấu tích ấy thể hiện qua các nghi lễ như đua ghe Ngo, thả đèn nước và thả đèn gió trong lễ hội Ok Om Bok. Tuy Phật giáo Nam tông có sự ảnh hưởng sâu sắc trong cộng đồng người Khmer nhưng tàn tích về Hindu giáo vẫn còn thể hiện trong những tín ngưỡng dân gian. Lễ hội cúng trăng đặc biệt hơn những lễ hội khác của người Khmer Nam Bộ khi vừa là lễ hội mang đậm chất nông nghiệp, gắn liền với nhiều điển tích Phật giáo nhưng lại có dấu tích của tín ngưỡng dân gian và Hindu giáo. Cụ thể, nghi lễ thả đèn nước (người Khmer gọi là Bund Lôi Prôtíp បុណ្យបណ្តែតប្រទីប, thả ánh lửa dưới nước) trong lễ hội Ok Om Bok của người Khmer Nam Bộ có nét tương đồng với lễ hội Kartik Poornima cầu thần Mặt trăng của người Ấn Độ là thể hiện lòng tôn kính, tạ ơn đến thần nước đã đem lại sự sinh sôi nảy nở cho con người. Đồng thời, như trên đã nói cũng để thể hiện sự ăn năn hối lỗi vì đã sử dụng nước để sinh hoạt đã làm tổn hại đến thần và gợi nhắc lại truyền thuyết thả hoa đăng trôi sông để dâng cúng đến dấu chân của đức Phật còn lưu giữ ở bến sông Nam ma Tea (Ấn Độ) [Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh 2015, tr.131].

Các nghi lễ liên quan đến nước trong lễ hội Ok Om Bok của người Khmer Nam Bộ còn phải kể đến hội đua ghe Ngo. Nó diễn lại tích xưa rắn thần Naga nổi lên đưa Đức Phật và các vị sư qua sông. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trần Dũng cho rằng, “đây cũng được cho là nghi thức người Khmer thực hiện để tiễn đưa mẹ nước về với biển cả sau một mùa nước nổi giúp con người gieo trồng, cũng như thể hiện ước nguyện đến mùa vụ năm sau, mẹ nước lại trở về cùng người dân gieo trồng. Điều này lý giải vì sao trong chu kỳ một năm, người Khmer với nhiều lễ hội nhưng chỉ có lễ hội cúng trăng Ok Om Bok mới diễn ra đua ghe Ngo” [Trần Dũng, Đặng Tấn Đức 2002, tr.152]

Trong không khí sôi nổi của phần hội, thả đèn gió (người Khmer gọi là Bund Boong hos côm បុណ្យបង្ហោះគោម, thả ánh lửa trên trời) trong lễ hội Ok Om Bok còn ý nghĩa sâu xa là tạ ơn thần Gió (Preah Vea-yô ព្រះវាយោ) – một trong những vị thần quan trọng cùng thần Mặt trăng cai quản mùa màng, đem lại mưa thuận gió hòa cho mùa màng tốt tươi. Mặt khác, nghi lễ thả đèn gió còn có ý nghĩa tống tiễn sự xui rủi, không may mắn đi nơi khác [Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh 2015, tr.131]. Thần Lửa (Preah Akki ព្រះអគ្គី) tuy không hiện hữu rõ vai trò vị thần trong lễ hội nhưng được nhắc đến (Bund Lôi Prôtíp បុណ្យបណ្តែតប្រទីប thả ánh lửa dưới nước, Bund Boong hos côm បុណ្យបង្ហោះគោម thả ánh lửa trên trời) như là “phương tiện” tiếp cận nhanh nhất và hiển linh nhất của người dân đến các vị thần. Hay phải chăng đã có “tàn tích” lớp văn hóa Hindu trong lễ hội Ok Om Bok trước khi Phật giáo Nam tông lan tỏa sâu rộng và hòa quyện vào văn hóa bản địa của người Khmer Nam Bộ tạo nên những nét đặc sắc riêng như hiện nay và lớp tàn tích Hindu giáo dường như đã bị lãng quên?

Trong cuộc sống, mặt trăng thật sự đã chi phối rất nhiều trong mùa màng từ yếu tố thời gian, thủy văn, thời tiết. Mỗi lần chu kỳ trăng khuyết đến trăng tròn là đánh dấu sự chuyển giao, thay đổi có ảnh hưởng rất lớn trong canh tác nông nghiệp.

Cũng là nước gắn liền với nông nghiệp, thần thoại Ấn Độ đã đề cập đến vai trò thiêng liêng của thần Mặt trăng trong đời sống của mình. Theo truyền thuyết thần Sôma ban đầu là thần Rượu sau mới được đồng hóa thành thần Mặt trăng Chanđra vì mặt trăng được xem như một cái bát đựng mật trường sinh Amrita (là nhụy ngọt trường sinh, là mầm mống của ánh sáng) lấy từ cây sôma (món ăn hàng ngày của các thần). Bên cạnh đó, người Ấn Độ cũng tin rằng mọi cây cỏ hoa lá về đêm đều được nuôi dưỡng từ ánh sáng trăng “dịu dàng, mát mẻ, ngọt ngào, đắm đuối”. Theo quan niệm xa xưa của người Ấn Độ, mặt trăng thuộc dương tính và là con trai của thần Biển Varuna. Chu kỳ mặt trăng đã ảnh hưởng nhiều trong đời sống và canh tác của họ nên thần thoại cũng đã có rất nhiều cách giải thích về hiện tượng trăng khuyết trăng tròn. Âm lịch của Ấn Độ chính là dựa vào sự vận động của mặt trăng [Cao Huy Đỉnh 2003, tr.67].

Là một đất nước với nhiều thần thoại về các vị thần và các lễ hội liên quan, Ấn Độ cũng có hẳn một lễ hội tôn thờ thần Mặt trăng. Cũng có truyền thuyết cho rằng Mặt trăng là con trai của Mặt trời[6] nên lễ hội Mặt trăng thường diễn ra sau lễ cầu Mặt trời Surya. Tín ngưỡng thờ thần Mặt trăng của Hindu giáo được thể hiện rõ qua chuỗi các lễ hội (lễ hội ánh sáng Diwali, lễ hội cầu thần Mặt trời và lễ hội cầu thần Mặt trăng) diễn ra trong tháng Kartika (thường rơi vào tháng 11 dương lịch). Theo Satguru Subramuniyaswami trong cuốn Vedic calendar: một tháng là mốc thời gian của một quỹ đạo mặt trăng quay quanh trái đất. Theo Hindu giáo, một tháng này được chia thành hai giai đoạn: hai tuần ánh sáng, gọi Shukla paksha (hoặc sudi) bắt đầu từ ngày có trăng non (Amavasya) đến lúc trăng tròn (Purnima). Hai tuần còn lại là hai tuần tối, gọi là krishna paksha (hoặc Vadi); đây là thời gian mặt trăng đang suy yếu, bắt đầu sau khi trăng tròn và kéo dài đến mặt trăng mới [Satguru Subramuniyaswami 1997, tr.61]. Trong tâm thức người Ấn Độ, giai đoạn từ trăng khuyết chuyển sang trăng tròn được xem là mốc thời gian linh thiêng nhất, vì nó tràn đầy năng lượng và đánh dấu sự tăng trưởng và phát triển. Ý nghĩa này thể hiện rất rõ trong mốc thời gian diễn ra các lễ hội liên tiếp nhau trong tháng Kartika như lễ hội ánh sáng Diwali, lễ hội Chhat Puja cầu thần Mặt trời và lễ hội Kartik Poornima cầu thần Mặt trăng.

Tín ngưỡng thờ thần mặt trăng cũng thể hiện rất rõ trong đời sống nông nghiệp của người Khmer Nam Bộ, đặc biệt là trong lễ hội Ok Om Bok. Mặc dù có rất nhiều lý giải của Phật giáo Nam tông liên quan đến nguồn gốc lễ hội Ok Om Bok, nhưng tín ngưỡng đa thần của Hindu giáo và lớp văn hóa tín ngưỡng dân gian bản địa vẫn ẩn hiện sâu bên trong lễ hội. Lễ hội Ok Om Bok (Ok Om Bok có nghĩa là đút cốm dẹp) vẫn được hiểu là lễ hội nhằm để tỏ lòng biết ơn của người dân trong phum sóc đến thần Mặt trăng [Trần Dũng, Đặng Tấn Phúc 2012, tr.152].

Trong nông nghiệp yếu tố tứ thần (thần Đất Preah Thô-ră-ney ព្រះធរណី, thần Nước Preah Kông kea ព្រះគង្គារ, thần Gió Preah Vea-yô ព្រះវាយោ, thần Lửa Preah Akki ព្រះអគ្គី) chi phối rõ nét đến mùa màng nhưng người Khmer Nam Bộ vẫn chọn thần Mặt trăng (Preah chant ព្រះច័ន្ទ hoặc Preah khe ឬព្រះខែ) đại diện cho tứ thần để làm lễ tạ ơn, vì người Khmer tin rằng tứ thần đều chịu sự cai quản của thần Mặt trăng. Thật vậy, trong nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, mặt trăng đã liên quan mật thiết đến chế độ triều cường, ảnh hưởng nhiều đến mùa vụ (cụ thể là các yếu tố đất, nước, gió, mặt trời) của người nông dân. Do đó, từ xa xưa, trong tâm thức người Khmer, thần Mặt trăng (Preah chant ព្រះច័ន្ទ hoặc Preah khe ឬព្រះខែ) có nhiệm vụ cai quản, điều tiết thời gian, thủy văn, thời tiết và cai quản, bảo hộ mùa màng.

Cũng giống như quan niệm của người Ấn Độ xa xưa, người Khmer Nam Bộ xem mặt trăng như là biểu hiện của thời gian thông qua hình dáng và sự chuyển động của nó. Theo nghiên cứu của Huỳnh Ngọc Trảng về người Khmer Nam Bộ: “mỗi tháng trăng thay đổi từ tháng 30 ngày (gọi là “tháng cái”) hoặc 29 ngày (gọi là “tháng đực”). Mỗi tháng chia làm hai tuần trăng – thượng tuần bắt đầu từ ngày có trăng non đến lúc trăng tròn (gọi là “khnơt”); hạ tuần bắt đầu từ ngày hôm sau ngày trăng tròn kéo dài đến 14 hay 15 ngày kế tiếp (gọi là “ronôc”); tức mỗi tháng có 15 ngày trăng sáng và 15 ngày trăng lu, trong đó ngày thứ 8 và ngày thứ 15 trăng tròn” [Huỳnh Ngọc Trảng 2009, tr.112].

Do thiên nhiên khá khắc nghiệt của vùng Ấn Độ, nên tín ngưỡng đa thần xa xưa của người Ấn được thể hiện qua các câu chuyện thần thoại với sự giao tranh mạnh mẽ của các vị thần. Khác với điều đó, thiên nhiên vùng Nam Bộ khá hiền hòa thuận lợi canh tác nông nghiệp nên trong nếp nghĩ, người Khmer Nam Bộ xem mặt trăng như một nữ thần, mang yếu tố âm tính vì gắn liền với đêm và yếu tố đất, nước [Huỳnh Ngọc Trảng 2009, tr.113]. Vì vậy, mặt trăng xuất hiện trong thần thoại người Khmer rất dịu dàng, biểu trưng cho sự biến đổi và sinh trưởng. Trong “Sự tích mưa, gió, mặt trời và mặt trăng”, mặt trăng hóa thân là người con út hiền lành, hiếu thảo trong một gia đình có bốn người con. Trong một lần đi ăn cỗ, ba người anh lớn mải lo ăn uống, chỉ có người em út khi ăn miếng ngon là nhớ chừa phần gói về cho mẹ. Nhưng trên đường về, ba người anh đã giật lấy phần của người em út để dành cho mẹ mà chia nhau ăn. Về sau, ba người anh lớn qua đời, hóa kiếp thành Mưa, Gió và Mặt trời. Bên cạnh sự có ích thì nó cũng là yếu tố gây tai họa cho con người. Chẳng hạn như mưa gây lũ lụt, gió lớn làm hại mùa màng, làm ngã cây cối; còn nắng hạn làm người dân không gieo cấy trồng trọt được. Điều này mang nét tính cách của ba người anh bất hiếu khi sống. Còn người em út hóa kiếp thành Mặt trăng với ánh sáng dịu hiền, tươi mát tỏa rộng muôn nơi, giống như bản chất của người con hiếu thảo, biết yêu thương mẹ [Huỳnh Ngọc Trảng 1983, tr.24].

Xét tín ngưỡng thờ thần Mặt trăng qua các lễ hội Ấn Độ và lễ hội Ok Om Bok là xét đến nguồn gốc văn minh nông nghiệp lúa nước. Điều này thể hiện rõ qua các lễ vật và nghi lễ tổ chức lễ hội. Tất cả các lễ vật dâng cúng trong lễ hội đều là những nông sản, những sản vật do chính tay người dân làm ra – các loại bánh kẹo trong lễ hội Diwali; cơm, bột mì, chuối trong lễ hội Chhat Puja cầu thần Mặt trời; hoa và cây húng quế trong lễ hội Kartik Poornima cầu thần Mặt trăng; cốm dẹp trong lễ hội Ok Om Bok. Những nghi lễ thực hiện dâng cúng lễ vật nông nghiệp này hướng đến đối tượng là mặt trăng – yếu tố chính chi phối đến mùa màng trong canh tác nông nghiệp.

Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của lễ hội Ok Om Bok trong phát triển du lịch

Sinh thái học tâm linh (Spiritual Ecology) mới hình thành từ nửa cuối thế kỷ XX và đang là một hướng tiếp cận mới trong việc nghiên cứu biến đổi môi trường. Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới đã khẳng định vai trò của tôn giáo, tín ngưỡng trong việc bảo tồn, bảo vệ môi trường khỏi sự tàn phá của con người. Cách tiếp cận sinh thái học tâm linh giúp người nghiên cứu hiểu biết đầy đủ trong phạm vi mối quan hệ hữu cơ giữa tín ngưỡng của một tộc người với môi trường tự nhiên [Phạm Quỳnh Phương 2013, tr.142-145]. Đa số đồng bào Khmer Nam Bộ đều theo Phật giáo (Nam tông). Theo triết lý Phật giáo: môi trường là ngôi nhà chung cho sự sống của muôn loài; Phật tử không được sát sinh muôn loài và vấy bẩn nguồn nước (nguồn sống) của chúng sinh. Trên nền tảng triết lý này, Phật giáo đã “thiêng hóa” các yếu tố môi trường liên quan đến đời sống của con người và hoạt động sản xuất nông nghiệp thông qua các nghi thức và Phật thoại. Điều này cũng thể hiện rõ trong các nghi lễ và ý nghĩa của lễ hội Ok Om Bok. Qua đó, chúng tôi nhận thấy phát triển du lịch lễ hội Ok Om Bok theo hướng tiếp cận sinh thái học tâm linh là có khả thi. Yếu tố sinh thái học tâm linh thể hiện rất rõ trong các nghi lễ được thực hiện trong lễ hội Ok Om Bok của người Khmer Nam Bộ. Trong hoạt động nông nghiệp của người Khmer, mặt trăng và nước là yếu tố đi đôi với nhau. Cả hai đều được tôn thành thần, riêng yếu tố nước còn được biết đến là “mẹ” - đối tượng linh thiêng ban nguồn sống đến người dân. Thủy triều dâng lên, rút xuống là do chu kỳ mặt trăng chi phối và cũng ảnh hưởng đến mùa màng. Trong lễ hội Ok Om Bok của người Khmer Nam Bộ bằng nhiều nghi lễ khác nhau (đua ghe Ngo - tiếng Khmer là Tuk Ngô và thả đèn nước - tiếng Khmer là Bund Lôi Prôtíp) nhưng nhìn chung vẫn hướng về ý nghĩa là tỏ lòng biết ơn thần nước Preah Kông kea, mẹ sông và cũng gửi lời tạ lỗi đến vị thần này vì đã làm ô uế đến nguồn nước trong mọi sinh hoạt. Trong không khí sôi nổi của phần hội, thả đèn gió (người Khmer gọi là Bund Boong hos côm: thả ánh lửa trên trời) trong lễ hội Ok Om Bok còn có ý nghĩa sâu xa là tạ ơn thần Gió (Preah Vea-yô) – một trong những vị thần quan trọng cùng thần Mặt trăng cai quản mùa màng, đem lại mưa thuận gió hòa cho mùa màng tốt tươi. Mặt khác, nghi lễ thả đèn gió còn có ý nghĩa tống tiễn sự xui rủi, không may mắn đi nơi khác.

Theo quan sát của nhóm nghiên cứu, việc khai thác lễ hội Ok Om Bok trong phát triển du lịch hiện nay theo kiểu “lối mòn” quảng bá văn hóa, đi đến lễ hội vì đông vui. Vì vậy, theo chúng tôi khi khai thác phát triển du lịch cho lễ hội Ok Om Bok cần chú ý khai thác yếu tố “thiêng” trong lễ hội. Yếu tố thiêng như “nước”, “mặt trăng” trong lễ hội Ok Om Bok cần có sự đầu tư và kết hợp chặt chẽ với nhiều sự kiện diễn ra trong lễ hội. Phải nâng cao được giá trị bảo vệ môi trường từ tín ngưỡng thờ thần “mặt trăng”, “mẹ nước” qua những nghi lễ cúng và những sinh hoạt đời thường của cộng đồng Khmer Nam Bộ. Kế đến cần chú ý khai thác yếu tố truyền thống trong lễ hội Ok Om Bok. Yếu tố này làm tôn lên giá trị thiêng của lễ hội. Bên cạnh đó, nhạc ngũ âm, trang phục và ẩm thực truyền thống, không gian văn hóa truyền thống của lễ hội (các ngôi chùa, điểm sinh hoạt cộng đồng,…) cũng cần được đầu tư và chú ý lưu giữ những nghi lễ truyền thống. Có như vậy lễ hội mới thật sự bảo tồn được không gian văn hóa và những giá trị văn hóa truyền thống. Ngoài ra, chúng tôi thiết nghĩ lễ hội Ok Om Bok có thể nâng lên thành “lễ hội nước” gắn kết với sự kiện bảo vệ nguồn nước, bảo vệ môi trường của thế giới; đồng thời gắn kết với các lễ hội Đông Nam Á có chung nguồn gốc để kêu gọi sự chung tay bảo vệ nguồn nước nói chung và dòng Mekong nói riêng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nguyễn Mạnh Cường (2002), Vài nét về người Khmer Nam bộ, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  2. Jean Chevalier và Alain Gheerbrat (1997), Từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng và Trường Viết văn Nguyễn Du, Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp Dictionnaire des symboles (Édition revue et augmentée, Robert Laffont, Paris 1992).
  3. Nguyễn Văn Dân (1998), Lý luận văn học so sánh, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  4. Cao Huy Đỉnh (2003), Tìm hiểu thần thoại Ấn Độ, NXB Khoa học xã hội.
  5. Trần Dũng, Đặng Tấn Đức (2012), Diện mạo văn hóa tín ngưỡng và lễ hội dân gian Trà Vinh, NXB Văn hóa - Thông tin.
  6. Đỗ Thu Hà (2013), “Bước đầu tìm hiểu biểu tượng lửa trong văn hóa Ấn Độ”, Những vấn đề khoa học xã hội & nhân văn – Chuyên đề Văn hóa học, NXB Đại học Quốc gia TP HCM.
  7. Cao Xuân Huy (2003), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  8. Cao Xuân Huy (2003), Tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
  9. Lê Hương (1969), Người Việt gốc Miên, NXB Sài Gòn.
  10. Nhiều tác giả (2013), Kỷ yếu Hội thảo: Dấu ấn Ấn Độ trong tiếp biến văn hóa ở Việt Nam và Đông Nam Á, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
  11. Tiền Văn Triệu, Lâm Quang Vinh (2015), Lễ hội truyền thống của người Khmer Nam Bộ, NXB Khoa học Xã hội.
  12. Huỳnh Ngọc Trảng (1983), Truyện cổ Khơ-me Nam Bộ, NXB Văn hóa, Hà Nội.
  13. Huỳnh Ngọc Trảng (2009), Ý nghĩa văn hóa tâm linh của lễ hội Oóc Om Bóc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Sóc Trăng.
  14. Tiền Văn Triệu (2011), Tích xưa về người Khmer Sóc Trăng, NXB Phương Đông.
  15. Donald K.Swearer (2010), The Buddhist world of Southest Asia, State University of New York Press.
  16. Satguru Subramuniyaswami (1997), Vedic calendar, Hymalayan Academy.
  17. Simoons, Frederick J. (1998), Plants of life, plants of death, University.
  18. Littleton, C. Scott; Marshal Cavendish Corporation (2005), Gods, Goddesses, and Mythology, Volume 11, Marshall Cavendish.

Nguồn: Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

 


[1]     Theo ghi chép điền dã của Trương Thị Kim Thủy (ở Trà Vinh và Sóc Trăng, 2015-2016).

[2]     Quyết định số 95/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (15/09/2009) về việc cấm sản xuất, nhập khẩu, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán, đốt và thả đèn trời trong phạm vi cả nước.

[3]     Theo ghi chép điền dã của Trương Thị Kim Thủy (ở Trà Vinh và Sóc Trăng, 2015-2016).

[4]     Trích dẫn từ bài viết Sông Hằng và Phật giáo Ấn Độ của Thích Đồng Thành, trên website; http://thuvienhoasen.org/a16950/song-hang-va-phat-giao-an-do (27/02/2013).

[5]     Đỗ Thu Hà (2013), Bước đầu tìm hiểu biểu tượng lửa trong văn hóa Ấn Độ, http://vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-the-gioi/van-hoa-nam-a-va-tay-nam-a/2573-do-thu-ha-buoc-dau-tim-hieu-bieu-tuong-lua-trong-van-hoa-an-do.html.

[6]     Theo tác giả Cao Huy Đỉnh, Sđd: Trăng nhận chất Amarita từ thần Mặt trời rồi phân phát cho thần, người, vật, cỏ cây. Mặt trời nuôi dưỡng Mặt trăng nên Mặt trăng cũng được gọi là con trai của Mặt trời. Mặt trăng có 16 ngón tay (kala hay còn gọi là tia sáng) đầy mật. Mỗi ngày qua, các thần sẽ nuốt mất của Trăng một ngón. Dần dần Trăng khuyết đi chỉ còn một ngón (lúc này gọi là tiết trăng non). Sau đó, Mặt trời lại bồi dưỡng thêm mật cho Mặt trăng đủ dần 16 ngón (lúc này trăng đầy đặn gọi trăng tròn ngày rằm).

Lên trên

Cùng chủ đề

  • Đổng Thành Danh. Những nhận thức mới về các di sản vật thể của người Chăm Ninh Thuận

  • Đổng Thành Danh. Diễn xướng linh thiêng như một biểu tượng trong nghi lễ của người Chăm

  • Đổng Thành Danh. Góp phần tìm hiểu vấn đề họ và tên của người Chăm

  • Đổng Thành Danh. Giải ảo huyền thoại Po Romé của người Chăm

  • Nguyễn Công Thảo. Dỡ bỏ định kiến tộc người: Bắt đầu từ đâu?

Thông báo

Tư vấn khoa học và kỹ năng nghiên cứu…

Tủ sách văn hoá học Sài Gòn

  • Thư viện ảnh
  • Thư viện video
  • Tủ sách VHH

Phóng sự ảnh: Toạ đàm khoa học: Xây dựng…

Hình ảnh văn hóa Tết xưa (sưu tầm)

Phóng sự ảnh: Lễ hội truyền thống VHH 2011

Phóng sự ảnh Lễ hội truyền thống VHH 2010

Thành phố Sankt-Peterburg, Nga

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi 2

Tranh Bùi Xuân Phái

Bộ tem tượng Phật chùa Tây Phương

Bộ ảnh: Đá cổ Sapa

Bộ ảnh: Phong cảnh thiên nhiên

Bộ ảnh: Việt Nam quê hương tôi

"Biển, đảo Việt Nam - Nguồn cội tự bao đời":…

Con dê trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Văn hóa Tết ở Tp.HCM (Chương trình truyền…

Văn hóa Tp. HCM: Một năm nhìn lại và động…

Phong tục Tết cổ truyền của người Nam Bộ

Bánh tét và Tết phương Nam

Con ngựa trong văn hóa và văn hóa Việt Nam

Điện Biên Phủ - Cuộc chiến giữa hổ và voi

Nhìn lại toàn cảnh thế giới từ 1911-2011…

Tọa độ chết - một bộ phim Xô-Việt xúc động…

Video: Lễ hội dân gian Việt Nam

Văn hoá Việt từ phong tục chúc Tết

Văn hoá Tết Việt qua video

Tết ông Táo từ góc nhìn văn hoá học

“Nếp nhà Hà Nội” trên “Nhịp cầu vàng”: tòa…

Văn hóa Thăng Long - Hà Nội qua video: từ…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm…

Hướng về 1000 năm TL-HN: Người Thăng Long…

Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà…

Default Image

Hướng về 1000 năm TL-HN: "Chuyện tử tế" -…

Sách “Di sản Ấn Độ trong văn hóa Việt Nam”

Nguyễn Văn Bốn. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người…

Sách: Quản lý và khai thác di sản văn hóa…

Hồ Sĩ Quý. Con người và phát triển con người

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 3

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 2

Alonzo L. Hamby. Khái quát lịch sử Mỹ. Phần 1

Hồ Sỹ Quý. Tiến bộ xã hội: một số vấn đề về…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á (Phụ…

Hồ Sỹ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Hồ Sĩ Quý. Về Giá trị và Giá trị Châu Á…

Sách: Chuyên đề Văn hoá học

Sách: Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam…

FitzGerald. Sự bành trướng của Trung Hoa…

Hữu Đạt. Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao…

Sống chụ son sao (Tiễn dặn người yêu)

Gs. Mai Ngọc Chừ. Số phận & Tâm linh

Trần Văn Cơ. Những khái niệm ngôn ngữ học…

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết)

Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2)

Các nhà VHH nổi tiếng

Julian Haynes Steward

Wen Yi'duo (Văn Nhất Đa)

Leslie Alvin White

Huang Wen'shan (Hoàng Văn Sơn)

Radcliff-Brown, Alfred Reginald

Sapir, Edward

Margaret Mead

Thăm dò ý kiến

Bạn thích cuốn "Cơ sở văn hoá VN" của tác giả nào nhất?

Chu Xuân Diên - 4.8%
Lê Văn Chưởng - 0.9%
Trần Diễm Thuý - 1%
Trần Ngọc Thêm - 37.4%
Trần Quốc Vượng - 53%
The voting for this poll has ended on: 26 06, 2020

Tổng mục lục website

tong muc luc

Tủ sách VHH Sài Gòn

tu sach VHH SG

Thống kê truy cập

  • Đang online :
  • 42
  • Tổng :
  • 3 4 2 8 5 0 4 1
  • Đại học quốc gia TPHCM
  • Đại học KHXH&NV
  • Tran Ngoc Them
  • T.c Văn hóa-Nghệ thuật
  • Tc VHDG
  • Viện NCCN
  • Khoa Văn hóa học
  • Khoa Đông phương học
  • Phòng QLKH
  • Khoa Việt Nam học
  • Khoa Hàn Quốc học
  • BM Nhật Bản học
  • Khoa Văn học - Ngôn ngữ
  • Khoa triết học
  • Khoa Quan hệ quốc tế
  • Khoa Xã hội học
  • Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
  • viettems.com
  • myfaifo.com
Previous Next Play Pause

vanhoahoc.vn (các tên miền phụ: vanhoahoc.edu.vn ; vanhoahoc.net)
© Copyright 2007-2015. Bản quyền thuộc Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQG Tp. HCM
ĐT (028) 39104078; Email: ttvanhoahoc@hcmussh.edu.vn; ttvanhoahoc@gmail.com. Giấy phép: số 526/GP-BC, do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 27-11-2007
Ghi rõ nguồn vanhoahoc.vn khi phát hành lại các thông tin từ website này.

Website được phát triển bởi Nhà đăng ký tên miền chính thức Việt Nam trực thuộc Trung Tâm Internet VNNIC.

Văn hóa các dân tộc thiểu số