Khánh Hòa là vùng đất có địa hình đa dạng, điều kiện tự nhiên phong phú, thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và đặc biệt là các hoạt động về ngư nghiệp như đánh bắt, chế biến hải sản. Cho nên, trong lịch sử phát triển, các nhóm người cổ đã sớm có mặt và sinh sống ở đây. Điều đó đã tạo nên cho Khánh Hòa những nét văn hóa mang sắc thái riêng, đặc sắc trong diễn trình lịch sử văn hóa dân tộc.
Hệ thống các di tích khảo cổ học tiền sơ sử ở Khánh Hòa có đặc điểm nổi bật là tuyệt đại đa số phân bố trong không gian văn hóa vùng ven biển và đảo gần bờ, thuộc dạng hình di tích “cồn - bàu”. Từ các di tích văn hóa Xóm Cồn có niên đại cách nay từ 3500 - 2500 năm, cho đến cụm di tích Hòa Diêm niên đại thế kỷ 7 trước Công nguyên đến khoảng thế kỷ I - II trước sau Công nguyên, đều phân bố trên những cồn cát. Nơi nằm ở phần chân núi giáp biển hay vùng cồn bàu ven biển, gần các đầm phá, xung quanh có những khe suối hoặc bàu nước là nguồn cung cấp nước ngọt dồi dào. Đó là khu vực cư trú của con người thời tiền sử.
Từ kết quả nghiên cứu địa chất, cũng như phân tích mẫu bào tử phấn hoa, xương răng động vật và những mẫu vỏ nhuyễn thể trong một số di chỉ, người ta đã ghi nhận các nền văn hóa có thời điểm cách ngày nay khoảng 3500 năm. Môi trường khu vực Nam Trung Bộ và đặc biệt là môi trường Khánh Hòa khá gần gũi với môi trường sống hiện đại, đặc biệt là môi trường ở đầu thế kỷ XX [Nguyễn Quang Miên 2009; Vũ Thế Long 1992].
Về quần thực vật, kết quả phân tích mẫu bào tử phấn hoa ở di chỉ Vĩnh Yên đã ghi nhận thành phần thực vật thân thảo chiếm đa số với 45%. Đó là các loại cây thuộc họ Hòa thảo (Poaceae), họ Cúc (Compositae), họ Bông (Malvaceae), tiếp đến là dương xỉ chiếm 27% với chủ yếu là các đại diện của họ Polypodiaceae. Thực vật thân bụi 11% bao gồm các đại diện của họ Đỗ quyên (Ericaceae), Cà phê (Rubiaceae), thực vật thân gỗ 9% và chiếm số lượng ít nhất là thực vật hạt trần 8%. Kết quả này cho thấy đây là khu vực khá thoáng đãng với chủ yếu là cây thảo và cây bụi ưa khí hậu nóng ẩm nhiệt đới [Trần Quý Thịnh và nnk 2010].
Quần động vật trên cạn, với các loài tê giác (rhinoceros), hươu (cevus sp), hoẵng (muntiacus), nai (rusa unicolor), trâu (bovinae sp), bò nhà (bos dom), bò rừng (bos gaurus), lợn rừng (sus scorfa), cheo cheo (tragulus)...chưa tính đến các loài động vật nhỏ và nhuyễn thể, tương tự như quần động vật ở Khánh Hòa cho đến tận những năm 30 của thế kỷ XX [Vũ Thế Long 1992].
Trong môi trường như vậy, các nhóm cư dân cổ Khánh Hòa đã chọn cho mình phương thức sống khai thác phổ tạp từ nhiều nguồn lợi tự nhiên rừng - đồng bằng - sông biển, trong đó nguồn lợi từ biển được chú trọng đặc biệt.
Trong số gần 30 di tích khảo cổ giai đoạn tiền sơ sử ở Khánh Hòa đã phát hiện đến nay, tuyệt đại đa số là loại hình di chỉ cư trú, chỉ có 3 địa điểm Vĩnh Yên, Bình Ba và Hòa Diêm là dạng di chỉ cư trú - mộ táng. Trong dạng di chỉ cư trú, dạng di tích phát hiện chủ yếu là các cụm di tích liên quan đến đời sống hàng ngày như các cụm vết tích liên quan đến bếp lửa hay bãi phế thải “đống rác bếp”... Những cụm di tích này gồm mảnh gốm vụn; nhiều mảnh vỏ nhuyễn thể; một số lượng nhỏ răng động vật, loại động vật ăn cỏ kích cỡ lớn như trâu bò...; than củi, than hoa...
Trong một giai đoạn xã hội có trình độ phát triển chưa cao, đời sống của cư dân tiền sử Khánh Hòa chủ yếu dựa vào thiên nhiên thông qua các hình thức kinh tế khai thác tự nhiên như săn bắt (bắn), hái lượm... Vì vậy, họ phải thích nghi với môi trường xung quanh. Ngược lại, môi trường đó quy định các phương thức kinh tế chủ yếu trong hoạt động sống của họ. Sự thích nghi đó phản ánh qua những công cụ lao động mà chúng ta hiện biết qua các đợt khai quật.
Sống trong một môi trường tự nhiên thuận lợi, gần rừng, cận biển, cư dân cổ Vĩnh Yên đã chọn cho mình một phương thức kinh tế khai thác phổ tạp. Các vết tích còn lại trong tầng văn hóa nơi đây đã cho thấy cuộc sống vật chất của các cư dân cổ Khánh Hòa là những cư dân thạo trồng trọt, biết đúc đồng, chế tác đồ đá, đồ mộc, đồ gốm và đặc biệt là thạo các phương cách thu lượm, đánh bắt, khai thác các nguồn lợi hải sản biển và ven biển dồi dào ở khu vực này.
Nhóm hiện vật ở Khánh Hòa có thể kể đến đầu tiên là nhóm đồ đá. Trong đó, phổ biến nhất là nhóm rìu hình bầu dục làm từ đá basalte. Chúng có chuôi thuôn nhỏ, lưỡi xòe, kích cỡ trung bình. Vì người cổ ít chú trọng đến hình thức bên ngoài nên rìu được chế tạo một cách qua loa. Đại đa số những chiếc rìu thu được đều có dấu vết ghè đẽo thể hiện quá trình tái chế công cụ dở dang. Ở đây, có thể nhận thấy một quá trình hai mặt: một bên là sự tính toán nhằm tiết kiệm công sức lao động. Người chế tạo đã sử dụng lại ngay những công cụ đã hỏng để làm lại phần lưỡi, rút bớt đi công sức ghè đẽo và mài chuốt vốn phải thực hiện khi chế tạo một công cụ hoàn toàn mới. Mặt khác, những công cụ tái chế sẽ bị vứt bỏ ngay nếu không đạt yêu cầu kỹ thuật của người sử dụng.
Những chiếc rìu được mài nhẵn toàn thân, rìa lưỡi sắc bén là những công cụ sản xuất hữu hiệu, để chặt cây, phá rẫy hoặc khai hoang để trồng trọt. Chính sự tồn tại đầm nước ngọt và đồng bằng trũng quanh các địa điểm cư trú cũng là yếu tố để khẳng định về một nền nông nghiệp trồng trọt nơi đây.
Bên cạnh rìu đá, người ta còn tìm được loại hình đục đá. Chúng có hình dáng gần giống với rìu nhưng kích thước nhỏ hơn. Điều đó cho thấy các nhóm cư dân cổ Khánh Hòa đã sử dụng đồ đá để làm mộc và có nhiều khả năng họ đã đục đẽo cây cối để làm nhà. Mặc dù, dấu tích trực tiếp của nhà cửa chưa được tìm thấy do sự huỷ hoại của mưa gió ngàn năm trên nền đất cát.
Bên cạnh đó là sự tồn tại của nhiều bàn nghiền và chày nghiền bằng đá. Như vậy, tại đây, dấu ấn của hoạt động thu lượm củ quả từ các loại cây trồng đã khá phát triển.
Kỹ nghệ đồ đá của các cư dân cổ Khánh Hòa cũng đáng được chú ý. Những cuộc khai quật đã tìm được khá nhiều các loại đá để làm nguyên liệu sản xuất công cụ và đồ trang sức. Người xưa đã biết đến cách mài (tìm thấy nhiều bàn mài bằng sa thạch có những vết mài hình lòng chảo, bàn mài rãnh và đặc biệt phát hiện được nhiều loại bàn mài trong dùng để mài mặt trong của các vòng trang sức); cách khoan, tiện (khoan lỗ hạt chuỗi, tiện và khoan để làm vòng trang sức). Họ còn có những chiếc cưa bằng đá, kích thước nhỏ, còn nguyên các vết sử dụng trên lưỡi cưa, dùng để cưa hạt chuỗi, cưa vòng trang sức.
Về đồ trang sức, trong văn hóa Xóm Cồn, người ta tìm thấy các loại vòng là loại hình đồ trang sức chủ đạo. Đa số vòng được làm từ đá phiến (schiste), tạo phiến mỏng, được ghè đẽo hai mặt tạo lỗ rồi mài tạo vòng trong; mặt cắt ngang hình tam giác dày hoặc hình chữ D. Bên cạnh đó, có mặt vòng cùng loại bằng đất nung và bằng vỏ nhuyễn thể.
Đến giai đoạn muộn, đồ trang sức có sự phát triển vượt bậc, nhiều loại chất liệu đá quý, thủy tinh, vàng...được các cư dân Hòa Diêm sử dụng. Điều này đã cho thấy cư dân cổ Khánh Hòa ở giai đoạn này có sự chú trọng vượt bậc đến thẩm mỹ và việc làm đẹp cho bản thân.
Liên quan đến kỹ thuật chế tác đá, với sự xuất hiện của những chiếc cưa đá tại một số di chỉ, ta có thể thấy rằng cư dân cổ Khánh Hòa đã biết đến và nắm vững các dạng hình kỹ thuật chế tác đá như ghè, mài, cưa... Tuy nhiên, do nguồn nguyên liệu đá chế tác công cụ và đồ trang sức xuất hiện phổ biến ở khu vực này quy định, nên ngoài kỹ thuật ghè đẽo và mài, các dạng kỹ thuật khác không phát triển như đã thấy trong quy trình chế tác đồ đá ở các khu vực lân cận. Đồng thời, với một số lượng tương đối lớn bàn mài và mảnh tước, ta có thể thấy, cư dân ở đây có khả năng tự chế tạo các loại hình công cụ lao động và đồ trang sức. Việc chế tạo mang tính chất nhỏ lẻ chứ không tập trung thành dạng công xưởng chế tác.
Tại hầu hết các di tích tiền sơ sử ở Khánh Hòa, người ta còn tìm thấy một số lượng lớn những viên cuội nguyên được sử dụng làm bàn đập, hòn kê. Chúng dùng làm công cụ để ghè đập hạt quả, xương động vật, vỏ sò ốc... Dạng công cụ này tìm thấy phổ biến trong các di tích giai đoạn tiền sơ sử trên đất nước ta. Đặc biệt, trong nhóm di tích phân bố ở ven biển, loại công cụ này đóng vai trò quan trọng là dùng để ghè đập, lấy thức ăn từ nhóm nhuyễn thể ốc, sò điệp... Đây là lượng thức ăn khai thác được ở các vùng đầm phá ven biển. Chúng ta có thể khẳng định đó là một trong những nguồn thức ăn quan trọng của các nhóm cư dân nơi đây.
Nhóm hiện vật ở Khánh Hòa có thể kể đến kế tiếp là nhóm đồ gốm. Loại đồ gốm tiền sơ sử Khánh Hòa trong giai đoạn sớm khá đơn điệu về mặt loại hình. Chúng thường được phân thành hai nhóm chính là đồ đun nấu và đồ đựng. Chúng có đáy tròn có hoặc không có chân đế, kích cỡ trung bình. Hoa văn đồ gốm khá đơn giản. Hầu hết đều là văn chải kỹ thuật, hoa văn mỹ thuật có số lượng rất ít.
Tuy nhiên, bước sang giai đoạn muộn, nghề thủ công làm gốm tiền sơ sử Khánh Hòa có sự phát triển bùng nổ. Người cổ đã làm những chum mộ chuyên sử dụng để chôn người chết, hoặc đồ đựng, đồ đun nấu khác nhau... Chúng được trang trí hoa văn in chấm, khắc vạch mang tính mỹ thuật cao.
Liên quan đến đồ gốm và nghề làm gốm, trong một số di chỉ đã tìm thấy một tập hợp đá thổ hoàng. Viên đá kích cỡ nhỏ, trên nhiều viên có dấu vết mài mòn ở nhiều mặt. Với những vết mài này, có thể nhận định một trong những chức năng của nó là sử dụng để lấy màu tô trên đồ gốm. Tất nhiên vẫn còn phải lưu ý đến một khía cạnh khác, phải chăng màu còn được sử dụng để bôi vẽ (lên cơ thể người) trong những dịp lễ hội như vẫn thấy ở một số thổ dân châu Mỹ ngày nay?
Nhìn chung, nghề làm đồ gốm là một ngành thủ công quan trọng. Số lượng hiện vật nhiều nhất trong tầng văn hóa cũng là các mảnh gốm. Tuy nhiên, theo chúng tôi, tương tự như nghề thủ công chế tác đá, nghề gốm cũng mang tính chất hộ gia đình chứ không tập trung thành công xưởng chuyên biệt.
Nhóm hiện vật ở Khánh Hòa có thể kể tiếp theo là nhóm đồ đúc đồng. Từ rất sớm, người cổ Khánh Hòa đã biết đến nghề đúc đồng. Các mảnh khuôn đúc rìu đồng và rìu đồng đã được tìm thấy ở một số di chỉ giai đoạn văn hóa Xóm Cồn. Chẳng hạn như, rìu và khuôn đúc ở Vĩnh Yên, Hòa Diêm, khuôn đúc sưu tầm được ở Ninh Hòa. Hầu hết là các loại khuôn để đúc ra loại rìu lưỡi xòe cân. Một bên họng của nó được đúc hai đường chỉ nổi song song. Đây là loại rìu đặc trưng cho một vùng rộng lớn ở vùng Đông Nam Bộ, Thái Lan và Nam Trung Quốc.
Sự có mặt của nghề đúc đồng ngay từ giai đoạn sớm của văn hóa Xóm Cồn cho thấy các làng cổ nơi đây thực sự đã bước vào thời đại đồ đồng. Mặc dù, dân làng còn sử dụng công cụ đa phần là đồ đá. Đó cũng là nét đặc trưng của một vùng bán đảo còn bảo lưu nhiều tập tục sản xuất cũ như sử dụng lâu dài rìu đá và cũng chứng tỏ nguyên liệu đúc đồng rất khan hiếm ở khu vực miền Trung nước ta chứ không dồi dào như khu vực Bắc Bộ.
Nhóm hiện vật ở Khánh Hòa có thể kể tiếp theo nữa là nhóm đồ xương. Trong văn hóa Xóm Cồn (đặc biệt là ở di chỉ Văn Tứ Đông và di chỉ Xóm Cồn), người ta còn thu được số lượng lớn đồ xương. Đa số được làm từ các mảnh xương ống động vật. Đó là các loại công cụ như mũi lao hoặc công cụ đan, vá lưới. Chúng được mài tạo mũi nhọn thường hoặc mũi nhọn có ngạnh. Đây là các loại công cụ mà cư dân các làng chài ven biển vẫn sử dụng. Đặc biệt, ở di chỉ Vĩnh Yên, ta còn tìm thấy 2 hiện vật làm từ vỏ con trai biển, mang chức năng là dao cắt, lưỡi rất sắc, khả năng được sử dụng để xẻ thịt các loại động vật.
Cư dân cổ Khánh Hòa đã khai thác nhiều loài nhuyễn thể biển mà đến nay tàn tích của nó vẫn còn trong tầng văn hóa của các di chỉ. Đó là những loại sò ốc sống ở vùng nước nông, bám vào đá, san hô.
Phương tiện khai thác trước đây của các nhóm cư dân cổ Khánh Hòa, có lẽ, chủ yếu là mò - “mò cua, bắt ốc” như người dân châu thổ Bắc Bộ vẫn làm từ trước cho đến nay - hay lượm nhặt trên vùng nước triều mới rút. Với những loại nhuyễn thể bám trên đá, người ta dùng những viên cuội tự nhiên làm dụng cụ để bóc chúng ra khỏi các tảng đá. Cách chế biến các loại nhuyễn thể cũng khá đơn giản. Với những loại hai mảnh, sau khi làm chín (luộc hay nướng) có thể dùng tay tách đôi chúng ra một cách dễ ràng. Với các loại ốc thì có thể dùng que nhọn để khêu hay đập phần đầu nhọn để mút (ốc hút). Một số loại nhuyễn thể khác có lớp vỏ ngoài khá cứng chắc thì người xưa phải dùng đến dụng cụ để đập vỡ lớp vỏ ngoài, dấu tích của việc này có thể nhận thấy ở nhóm hòn kê - đập được sử dụng từ những hòn đá cuội tự nhiên.
Lớp vỏ nhuyễn thể trong một số di chỉ đã được xác định gồm có các loại:
- Hàu: Crassostrea sp.
- Sò: Barbatia sp
- Sò lông: Anadara antiquata
- Xút: Gafrarium tumidum
- Ốc nhảy: Strombus (Laevistrombus) canarium
- Ốc tai tượng: Quamosa
- Ốc xà cừ: Turbo (Turbo) marmoratus
- Ốc gai: Thais lacera
- Ngao: Meretrix meretrix
- Ốc len: Terebralia sulcata
- Hến: Gari elongata
- Điệp: Placuna placenta
- Ốc mặt trăng: Turbo bruneus
- Ốc chà và: Charonia tritonis
- Ốc ngọt: Nerita (Nerita) lineata
- Vộp: Galoina sp
- Ốc mỡ: Polinices (Polinices) aurantius
- Ốc gạo: Natica tigrina
- Ốc đực: Trochus maculatus L; Trochus niloticus L.
- Ốc hương: Babylonia areolata…
Kết quả khảo sát cho thấy, người xưa đã khai thác các loại sò ốc này ở khu vực đầm phá ven biển xung quanh khu vực di chỉ. Ngày nay, cư dân địa phương cũng vẫn tiếp tục thu hoạch hải sản ở đây như hơn 2000 năm về trước.
Có thể ghi nhận biển và các nguồn lợi hải sản phong phú của nó là một trong những yếu tố quan trọng tác động tới nền kinh tế khai thác của cư dân cổ Khánh Hòa. Do điều kiện tự nhiên, cư dân cổ Khánh Hòa là những người định cư ven biển và hoạt động kinh tế khai thác nguồn hải sản ven biển, thuộc đới gần bờ. Trong đó, các loại nhuyễn thể và các loại cá nhỏ chắc hẳn cũng đã chiếm một vai trò không nhỏ trong đời sống của họ.
Bên cạnh cuộc sống vật chất, cuộc sống tinh thần các các cư dân cổ Khánh Hòa cũng rất phong phú. Nếu ở giai đoạn muộn người dân nơi đây thích làm đẹp bằng khuyên tai, vòng tay và hạt chuỗi bằng đá, bằng gốm...thì ở giai đoạn sớm họ say mê sưu tầm các hòn đá thạch anh màu sắc lóng lánh. Đây là một thú say mê liên quan sâu xa đến tục thờ đá của cư dân cổ đại mà nhiều vùng trên thế giới còn tồn tại đến nay.
Cuộc sống tâm linh của người cổ Khánh Hòa thể hiện ở cách quan niệm về cõi sống và cõi chết của họ. Họ không phân biệt lắm về ranh giới giữa sự sống và sự chết. Cái chết chẳng qua là tiếp tục sự sống ở một thế giới khác. Chính thế nên khi có người chết, người cổ Khánh Hòa cũng chia bớt của cải cho họ. Những đồ tuỳ táng thường là đồ gốm thường nhật sử dụng và ở giai đoạn muộn là những đồ trang sức mã não, thủy tinh...công cụ sắt hay những đồ gốm được tạo tác rất đẹp.
Khảo sát những ngôi mộ ở Vĩnh Yên và Hòa Diêm, ta còn thấy được táng thức, sự chuyển biến về táng thức, cũng như tâm lý ứng xử với người chết qua từng giai đoạn của người xưa. Ở giai đoạn sớm, người ta không chôn người chết trong các quan tài làm bằng chum gốm (mộ chum) như ở giai đoạn muộn mà chọn cách chôn nằm co. Rất có thể khi chôn, họ đã buộc chặt tay, chân lại, chôn ngay cạnh hoặc ngay trong nơi cư trú của người sống. Tài liệu dân tộc học còn cho thấy một số tộc người chôn người quá cố theo kiểu nằm co này và tay chân buộc chặt như sợ người chết quay trở lại quấy rối người sống. Một số lại cho rằng cách chôn này sẽ đặt người chết giống như tư thế của thai nhi trong bụng mẹ. Có lẽ, đó là quan niệm của họ về cuộc đời của một con người ra đời có hình dáng thế nào thì trả về lòng đất với dáng vẻ đó. Ta cũng không biết được ý nghĩa tâm linh của tập tục mai táng này một cách chính xác. Nhưng cách chôn nằm co như vậy đã từng tồn tại trong nền văn hóa Hòa Bình, thời đại đồ đá mới sơ kỳ ở nước ta cách đây gần vạn năm.
Đến giai đoạn Hòa Diêm, người chết đã được tách ra hẳn với thế giới người sống, đã được đặt trong một khu nghĩa địa riêng. Thế giới người chết đã được nhận thức rõ ràng và tách biệt với người sống. Theo đó, tục chia của cũng phát triển cao hơn một bước. Nó vừa thể hiện dòng dõi thân phận người chết, vừa thể hiện mức độ phân hóa giàu nghèo trong mỗi cộng đồng dân cư chủ nhân của khu mộ.
Tóm lại, do nằm ở khu vực có đặc điểm địa hình và môi trường sống rất thuận lợi, người xưa đã chọn khu vực ven biển và đảo gần bờ Khánh Hòa làm nơi cư trú lâu dài. Đồng thời, triển khai các phương thức kinh tế khai thác tự nhiên như hái lượm theo phổ rộng. Đặc biệt là việc khai thác các nguồn lợi thuỷ hải sản ven bờ như tôm, cua, cá và các loại nhuyễn thể... Mặc dù, đây là vùng đất có sự giao lưu, giao thoa văn hóa với nhiều nơi khác trong khu vực Đông Nam Á hải đảo nhưng do điều kiện tự nhiên thuận lợi nên các nhóm cư dân cổ Khánh Hòa trong suốt tiến trình lịch sử hàng ngàn năm của mình họ vẫn giữ nguyên phương thức khai thác biển thô sơ như lúc ban đầu mà không có sự cải tiến nào đáng kể.
Và cho đến gần đây vẫn vậy…
Tài liệu tham khảo và trích dẫn
- 1.Bui Chi Hoang, Y Mariko, Nguyen Kim Dung 2010: Excavations of Hoa Diem 2007 and 2010 seasons, Tham luận Hội thảo Khảo cổ học tiền sơ sử Khánh Hòa, Nha Trang.
- 2.Nguyễn Công Bằng, Trịnh Căn, Quang Văn Cậy, Vũ Quốc Hiền, Phạm Văn Hoán, Ngô Thế Phong 1993: Văn hóa Xóm Cồn với tiền sử và sơ sử Khánh Hòa. - Nha Trang.
- 3.Nguyễn Đăng Cường 2004: Báo cáo kết quả khai quật di tích Hòa Diêm, xã Cam Thịnh Đông, thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa, Khóa luận tốt nghiệp K25 tại chức Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội.
- 4.Nguyễn Ngọc Quý, Trần Quý Thịnh 2010: Văn hóa Xóm Cồn một số vấn đề thảo luận, Tham luận Hội thảo Khảo cổ học tiền sơ sử Khánh Hòa, Nha Trang.
- 5.Nguyễn Quang Miên 2009: Một số dẫn liệu về địa khảo cổ học vùng duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, Tạp chí Khảo cổ học, số 3.
- 6.Trần Quý Thịnh và nnk 2010: Báo cáo tổng thuật kết quả khai quật di chỉ Vĩnh Yên (Khánh Hòa) năm 2009.-Nha Trang: Tư liệu Bảo tàng Khánh Hòa.
- 7.Trần Quý Thịnh, Nguyễn Ngọc Quý 2009: Di chỉ Văn Tứ Đông (Khánh Hòa) - tư liệu qua cuộc khai quật năm 2006, Tạp chí Khảo cổ học, số 6.
- 8.Vũ Thế Long 1992: Di tích động vật ở di chỉ Xóm Cồn (Cam Ranh). Trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1992, Hà Nội.
- 9.Vũ Quốc Hiền 1996: Văn hóa Xóm Cồn và vị trí của nó trong thời đại kim khí ven biển miền Trung, Luận án Phó Tiến sĩ khoa học Lịch sử, Viện Khảo cổ học, Hà Nội.
Nguồn: Văn hóa Biển đảo Khánh Hòa, NXB Văn hóa, 2011