1. Khái quát văn hóa Raglai
Raglai (cũng được phiên âm thành Radlai, Oranglai, Roglai, Rắclây…) là một tộc người trong nhóm ngữ hệ Malayo - Polynesien (nhóm này ở Việt Nam gồm Chăm, Raglai, Chu Ru, Êđê, Giarai). Về ngọn nguồn các tộc người của nhóm này, dù các nhà khoa học còn nhiều tranh luận nhưng đều thống nhất rằng họ vốn là những cư dân hải đảo (gốc Đông Nam Á hoặc di cư từ các đảo vùng biển Nam Trung Quốc xuống Đông Nam Á).
Hiện nay, người Raglai sinh sống ở các vùng núi Nam Trung bộ có độ cao trên dưới 500 mét, từ miền Tây Khánh Hòa qua vùng Tây Bắc Ninh Thuận, Tây và Tây Nam Bình Thuận đến tận Lâm Đồng, trong đó, tập trung đông nhất ở Ninh Thuận (hơn 50%) và Khánh Hòa. Tổng số dân Raglai cả nước, theo thống kê năm 2003, là trên 108.500 người, xếp thứ 19 trong 54 dân tộc.
Cuộc sống của người Raglai truyền thống gần như chỉ thu hẹp trong khuôn khổ của các làng (palơi/paley). Mọi hàng hóa, vật dụng bên ngoài đều do những người dân tộc khác (Chăm, Kinh…) mang đến tận nhà, trao đổi tận rẫy nương. “Cuộc sống biệt lập khiến cho khối người này lưu giữ được nhiều hơn những đặc điểm truyền thống văn hoá cổ gần gũi với cư dân các hải đảo”[Trần Ngọc Thêm:1996/2004:56].
Theo tiêu chí về vị trí địa lý và quan hệ với những dân tộc khác, các nhà khoa học phân chia người Raglai thành hai nhóm: Raglai Bắc và Raglai Nam với quốc lộ 27 (từ Ninh Thuận lên Lâm Đồng) làm ranh giới. Cả hai nhóm Raglai Bắc và Raglai Nam đều quan hệ giao lưu văn hóa với các dân tộc chung quanh. Hình ảnh của người Chăm (Chap/Cham), người Êđê (Rađê), người Kinh (Yuơn), Chu ru (Churu) thường xuyên xuất hiện trong các sử thi, truyện kể, các câu nói vần (đờp pacap), thành ngữ, ca dao…của người Raglai. Đặc biệt gắn bó là quan hệ với người Chăm. Những dấu ấn của sự gắn bó chặt chẽ ấy thể hiện qua sự tương đồng, gần gũi Chăm-Raglai từ hình thức kinh tế đến phong tục, tập quán, lễ hội, tục ngữ, thành ngữ, thơ ca dân gian; từ các nhạc cụ cho đến trang phục… Về điểm này, có ý kiến cho rằng: “Người Raglai và người Chăm có mối quan hệ gần gũi, cùng nhóm ngữ hệ, nhưng phát triển độc lập với nhau” [Nguyễn Tuấn Triết 1991: 27], lại có ý kiến cho rằng: “Người Raglai là một tộc người trong thành phần cư dân của Chămpa cổ đại...” [Phan Xuân Biên, Phan An... 1998: ii].
Có thể hình dung quá trình hình thành và phát triển của người Raglai ở Việt Nam qua 3 giai đoạn cơ bản:
Giai đoạn thứ nhất: Thời kỳ tiền sử. Người Raglai thiên di đến khu vực Đông Nam Á từ khoảng cuối thời kỳ đồ đá mới, chừng 5.000 năm trước, và sinh sống tại các vùng ven biển, vùng chân núi phía Nam Trường Sơn.
Giai đoạn thứ hai: Thời kỳ giao lưu văn hóa với người Chăm. Người Chăm phát triển thành một vương quốc hùng mạnh, người Raglai chuyển dần lên sống trên tại các vùng núi ở Tây Nguyên tuy một số vẫn sống ở các vùng ven biển cùng với người Chăm. Để cai quản khu vực có người Raglai sinh sống, người Chăm đặt các Po lagar (đầu xứ sở) do chính người Raglai đảm trách.
Giai đoạn thứ 3: Thời kỳ giao lưu với người Việt và các dân tộc trong khu vực (từ cuối thế kỷ XVII đến nay).
Ngày nay, phần lớn người Raglai sống gắn bó chủ yếu với vùng núi rừng. Họ thường không cư trú nơi thung lũng vì quan niệm đó là lối đi của ma quỉ, cũng không cư trú trên sống lưng những quả đồi vì đấy là đường đi của các thần. Chỉ nơi lưng chừng núi là không gian thuộc quyền sở hữu của con người.
Khu vực địa lý của người Raglai cũng có khá nhiều sông ngòi. Chỉ tính riêng ở vùng Khánh Sơn, Khánh Vĩnh - nơi tập trung người Raglai đông nhất (hơn 75%) trong tỉnh Khánh Hòa, có đến 48 con sông có chiều dài vài kilômét, trong đó 5 con sông dài trên 10 kilômét và hàng trăm con suối lớn nhỏ... Chính những con sông, dòng suối này cung cấp nguồn nước uống cho người, gia súc; cho việc tưới tiêu sản xuất.
Nông nghiệp nương rẫy là phương thức sản xuất chủ đạo với bắp và lúa là nguồn lương thực chính. Ngoài ra còn có các loại nông sản khác như đậu, khoai củ, hoa quả…Trâu, bò, heo, gà được nuôi thả phổ biến. Những hoạt động thủ công như đan lát, rèn, làm gốm …mặc dù thô sơ nhưng đủ đảm bảo cho sản xuất và sinh hoạt.
Xã hội truyền thống của người Raglai được cấu trúc theo dòng tộc và khu vực cư trú. Người Raglai sống quy tụ theo tộc họ. Điển hình có bốn dòng họ chính: (1) Chamalịa (có nghĩa là sợi dây máu - loại dây thừng to bằng ngón chân cái, rất dai, ruột đỏ như máu, đồng bào thường dùng dây đó để buộc - , người Raglai do cho rằng màu đỏ là màu của sự xui rủi, là kiêng cữ nên gọi chệch thành họ Mấu) , (2) Pupur (có nghĩa là cái bếp, nay gọi thành họ Tro), (3) Katơr (một loại cây lương thực, hạt nhỏ, người Kinh vẫn thường gọi là hạt bo bo, - gọi là họ Bo Bo), (4) Pinãng (nghĩa là cau, nay gọi là họ Cau / họ Cao) [Theo Tô Đông Hải]. Trong tộc họ, trưởng họ có quyền quyết định những công việc lớn.
Người Raglai theo chế độ mẫu hệ và đến nay, vẫn giữ tục “con gái bắt chồng”, đàn ông ở rể, con cái theo họ mẹ, quyền thừa kế thuộc về con gái và thường là con gái út gánh vác trọng trách quản lý gia đình khi cha mẹ qua đời...
Nhiều nhà tụ thành bur (xóm), nhiều xóm họp thành palơi (buôn, làng). Quản lý buôn làng thường gồm Chủ Làng (người điều hành mọi hoạt động, chủ trì các lễ hội, tổ chức đội ngũ phòng chống thú dữ cũng như các lực lượng xâm nhập...), Chủ Núi (cai quản rừng núi, nương rẫy thuộc sở hữu gia đình, sở hữu dòng họ và sở hữu cộng đồng) và Chủ Xử việc (phân xử sự việc lớn nhỏ xảy ra trong làng trên cơ sở luật tục, những kiêng cữ cấm kỵ, phong tục tập quán...).
Như vậy, từ toạ độ về chủ thể, không gian và thời gian văn hoá, chúng ta có thể xác định văn hoá của người Raglai ở Việt Nam thuộc văn hoá khu vực Đông Nam Á“trọng tĩnh, gốc nông nghiệp”vớiyếu tố núi rừng đóng vai trò chủ đạo, yếu tố biển như một lớp trầm tích.
2. Quá trình sưu tầm, biên dịch Awơi Nãi TiLơr
Công việc bắt đầu từ năm 2004 khi đoàn nghiên cứu tìm gặp bà Chamaliaq Thìq Jiêng, một trong số ít những nghệ nhân còn thuộc nhiều sử thi Raglai. Bà Chamaliaq Thìq Jiêng khi đó khoảng 78 tuổi, trước ở huyện Bác Ái tỉnh Ninh Thuận theo con cháu về sinh sống tại xã Sơn Bình, huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa đã 30-40 năm. Bà đã hát cho nhóm sưu tầm ghi âm 6 sử thi (Chetili, Chơi Pu oh, Amã Ujàc Asơu, Jarahĩq, Sa ia Juhia, Awơi Nãi TiLơr) trong đó Awơi Nãi TiLơr chỉ là tác phẩm có độ dài trung bình.
Trực tiếp ghi âm và biên dịch tác phẩm Awơi Nãi TiLơr qua lời hát kể của bà Chamaliaq Thìq Jiêng là Chamaliaq Riya Tiẻnq và Trần Kiêm Hoàng, hai cán bộ phòng Văn hoá Thông tin Thể thao huyện Khánh Sơn. Vì còn có công việc cơ quan nên nhóm chỉ có thể điền dã vào những ngày nghỉ cuối tuần. Những ngày mưa rừng xối xả làm đoạn đường 8 km từ trung tâm huyện lỵ về xã thành gian khó, xa xôi. Nhiều khi lặn lội lên đến nơi thì nghe người trong palơi báo: “Awơi lên nương tỉa bắp, tỉa lúa rồi”. Rồi những khi bà Chamaliaq Thìq Jiêng đau ốm, các anh quay xe về huyện mua đường sữa, thuốc thang, trở lên chăm sóc bà như thể người thân… Ban đầu, những làn điệu cổ chưa dễ quen thuộc với Chamaliaq Riya Tiẻnq và Trần Kiêm Hoàng. Dần dà, các anh đã có thể bắt nhịp, “ừ à”… tạo thêm phấn khích cho nghệ nhân hát kể, nhắc ý, nhắc lời sau mỗi lần nghệ nhân nghỉ giải lao, phụ hoạ theo ở những đoạn điệp khúc... Suốt 6 tháng trời họ mới hoàn thành việc ghi âm.
Sau đó, Chamaliaq Riya Tiẻnq và Trần Kiêm Hoàng bắt tay vào công việc gỡ băng và biên dịch. Do người Raglai không có chữ viết nên nhóm nghiên cứu tiến hành phiên âm dựa trên những nguyên tắc đề xuất trong công trình Sưu tầm nghiên cứu xây dựng chữ viết tiếng Raglai (đã được Hội đồng khoa học tỉnh Khánh Hoà nghiệm thu công nhận năm 1996). Có những đoạn băng họ phải tua lại nhiều lần mà vẫn không hiểu. Chamaliaq Riya Tiẻnq nói: “Những từ này hiện nay không còn sử dụng trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày của người Raglai nữa, làm sao mình biết được mà dịch”. Thế là lại lên xe tìm đến nghệ nhân… nhưng chính awơi Chamaliaq Thìq Jiêng cũng không có được lời giải đáp: “Mình nghe sao thì manhĩ (hát) thế thôi!”. Lại đi tìm những người già khác, bấm máy cho họ nghe và nhờ giải thích hộ. Một đoạn băng không đầy một phút có khi khiến nhóm biên dịch mất vài ngày, thậm chí cả tuần mới tổng hợp, tìm được ý nghĩa chính trong lời hát cổ. Mặt khác, tác phẩm đậm đặc những tục ngữ, thành ngữ giản lược, những “điển tích”, những địa danh hư cấu… đòi hỏi phải hiểu biết sâu rộng dân tộc chí mới có thể chuyển nghĩa, dịch thoát nghĩa một cách phù hợp. Một số kiểu câu trong nguyên bản khi chuyển sang tiếng Việt hoàn toàn vô nghĩa vì chúng chỉ lặp các hư từ, từ đệm với ý nghĩa đưa hơi trong quá trình diễn xướng của nghệ nhân. Thêm nữa, tiếng Việt vốn đơn âm tiết, trong khi tiếng Raglai lại đa âm tiết. Cấu tạo vần cũng như niêm luật trong các giai điệu cổ do nghệ nhân diễn xướng không theo một quy ước chặt chẽ nhất định, và không tương đương như trong ngôn ngữ thơ ca Việt. Nhóm biên dịch đã phải thảo luận, cân nhắc kỹ để có được sự tương thích càng nhiều càng tốt giữa nguyên bản Raglai và chuyển ngữ tiếng Việt. Sau hơn một năm miệt mài, nhóm đã hoàn thành phần phiên âm và dịch thô sử thi Awơi Nãi TiLơr.
Cuối cùng là khâu biên tập văn học do chúng tôi (Ngô Đức Thịnh, Phan Thu Hiền) đảm trách. Mặc dầu đã có một vài công trình nghiên cứu sử thi Ấn Độ và sử thi Tây Nguyên, chúng tôi chưa được biết nhiều về sử thi Raglai. May mắn là chúng tôi có điều kiện thường xuyên trao đổi, hỏi ý kiến anh Trần Kiêm Hoàng. Trên bản dịch thô, chúng tôi, một mặt, cố gắng giữ lại những lối diễn đạt, những hình tượng đặc thù thể hiện cách cảm, cách nghĩ, cách sống… cổ xưa của người Raglai, mặt khác, tìm kiếm một sự chuyển ngữ vừa trong sáng, dễ hiểu vừa có chất văn chương, tính nhịp điệu…càng nhiều càng tốt. Nguyên tắc làm việc như thế nhưng nhiều trường hợp cụ thể thật khó để có thể đảm bảo cả “tín” lẫn “nhã” và khi ấy chúng tôi thường đã chọn ưu tiên cho yêu cầu “tín”.
3. Tóm tắt tác phẩm Awơi Nãi TiLơr
Trong các akhàt jucar, người Raglai thường lấy ngay tên nhân vật chính trung tâm làm tên tác phẩm. Trường hợp Awơi Nãi TiLơr cũng vậy, đây là câu chuyện về nữ nhân vật anh hùng được người Raglai tôn kính như vị nữ thần của họ.
Tác phẩm gồm 54 khúc ca, có thể tóm tắt cốt truyện theo 4 phần chính.
Phần thứ nhất (Từ khúc ca 1 đến khúc ca 10)kể về hành trình của Awơi Nãi TiLơr đến xứ Thần Biển Khơi và cuộc hôn nhân giữa ChiGanrưh và ChiGanval với hai công chúa con thần Biển Khơi là Matien và Sa-ien.
Tại một Palơi Raglai ở cõi trần gian nọ, có một người con gái xinh đẹp tuyệt trần lại có tài phép do trời ban cho, đó là Nãi TiLơr. Mồ côi cha mẹ, nàng ở với người chú “chủ cơ ngơi rẫy cũ kho tàng tại nhà tổ mẫu”. Tiếng tăm về tài sắc của Awơi Nãi TiLơr lừng lẫy khắp núi rừng, khắp buôn xa bản gần, vang xa, vang mãi đến tận xứ sở của thần Biển khơi Putau Tuwaq và chúa thần mẫu Via Valìq. Vua thần Biển khơi cùng chúa mẫu lệnh cho thuộc hạ đến nhà Awơi Nãi TiLơr buộc nàng phải tìm cho được trầm hương to bằng đùi, ngà voi cao bằng đầu người để cống nạp, nếu không sẽ dâng nước làm hại dân làng.
Các dũng sĩ Amã Dưh, Tumữh, Chi Ganrưh, Chi Gaval…bèn cấp tốc đem thừng to bằng bắp tay, đem ná và đủ các loại bẫy lên rừng tìm trầm hương, tìm kỳ nam, vây bắt voi giúp nàng Nãi TiLơr. Họ đi hết ngày này sang tháng khác để rồi đều trở về tay không.
Awơi Nãi TiLơr quyết định một mình đi tìm vật lễ. Nàng đi mãi vào rừng sâu gặp thần trầm hương. Sau khi nghe nàng kể, thần thương tình hóa phép cho nàng cây kỳ nam “to bằng đùi”. Awơi Nãi TiLơr tiếp tục tìm đến nơi đàn voi thần thường đi uống nước biển tận xứ Ia Tra. Nàng ra tận cuối con đường, nằm xõa tóc chờ. Thấy người con gái xinh đẹp nằm chắn đường khóc lóc, chúa voi trắng hỏi nguyên nhân mới hay nàng muốn xin ngà trắng “cao bằng đầu” để làm lễ vật. Chúa voi, sau khi căn dặn bầy đàn mọi điều, đã rút cặp ngà trao cho Awơi Nãi TiLơr. Cặp ngà thần vừa rút ra, voi trắng đầu đàn gục xuống, đàn voi cùng nhau đưa xác voi thần vào rừng sâu.
Có đầy đủ lễ vật, Awơi Nãi TiLơr cùng các tráng sĩ Raglai đến xứ sở của vua chủ thần Biển. Sau khi cống nạp, tức giận vì lời nói xúc xiểm xấc xược của hai công chúa con thần Biển là MaTien và Sa-ien, nàng Awơi Nãi TiLơr rút gươm thần thách chém. Thua cuộc, hai công chúa buộc phải đi theo Awơi Nãi TiLơr.
Về đến xứ sở nhà sàn, Awơi Nãi TiLơr tổ chức đám cưới cho hai nàng công chúa nên duyên chồng vợ với hai dũng sĩ của mình là ChiGanrưh và ChiGanval. Ban đầu MaTien và Sa-ien không chịu nhưng khiếp sợ trước lưỡi gươm của Awơi Nãi TiLơr hai nàng buộc phải bằng lòng.
Đám cưới được tổ chức xong phần lễ đến phần hội. Awơi Nãi TiLơr sai người đến nhà chứa bông dệt vải mời hai chàng Chiyàc và Chijaràc ra chung vui. Nghe đầu đuôi câu chuyện, hai chàng trai này muốn đích thân hai công chúa phải mang cơm rượu lễ cưới ra mời tận nơi hai chàng mới đồng ý. Khi hai nàng đến theo lệnh của Awơi Nãi TiLơr, vừa gặp mặt, MaTien đã phải lòng Chiyàc, còn Sa-ien mê Chijaràc.
Phần thứ hai (Từ khúc ca 11 đến khúc ca 20) kể về những cuộc hôn nhân của các nhân vật chính – hôn nhân giữa người anh họ của TiLơr là Ujàc với công chúa Makia con của vua Lửa thiêng lòng đất Longca và hôn nhân giữa TiLơr với Jihia, con của ông thần Mương máng bà thần Sấm sét.
Người anh họ của Awơi Nãi TiLơr là Amã dam Ujàc. Ujàc cũng mất cha mẹ từ sớm. Chàng ở với hai người em gái là Vala và Via Carưh. Một hôm Ujàc từ giã hai em gái tìm đến xứ sở của vua Lửa thiêng lòng đất Long ca xin hỏi công chúa Makia làm vợ. Sau khi tổ chức đám cưới theo đúng tục lệ cổ truyền của người Raglai tại cột cái nhà sàn, nơi thờ tổ tiên ông bà nhà vợ, chàng Ujàc đem công chúa Makia trở về nhà mình để làm lễ cưới huaq vu. Anh em bên xứ sở của Awơi Nãi TiLơr vui mừng lên ngựa, cưỡi voi sang vui cùng Ujàc.
Khi Awơi Nãi TiLơr dự đám cưới của người anh họ trở về đến nhà thì có hai người khách lạ đến thăm. Đó là hai chàng trai con của ông thần Mương máng bà thần Sấm sét: Jihia và Chita. Cảm mến tài năng của Jihia, nàng TiLơr ưng cái bụng khi nghe chàng ngỏ ý muốn bắt mình về làm vợ. Nghe tin này, chàng Ujàc cùng với vợ và hai em gái sang làng Awơi Nãi TiLơr để dự đám cưới. Chita gặp là phải lòng hai nàng Vala và Via Carưh, em gái của Ujàc.
Phần thứ ba (Từ khúc hát thứ 21 đến khúc hát 41) kể về những trận chiến kinh hoàng long trời lở đất giữa quân của hai chúa làng TiLơr và Ujàc với quân các đầu vua chúa, các thần ác.
Trong khi mọi người đang vui vẻ đấm mala, múa chiêng trong đám cưới của nàng TiLơr với Jihia, Chita với hai cô em gái của Ujàc, Jahuruơi con của thần Vườn chuối vườn cau đến chọc ghẹo Awơi Nãi TiLơr và hai nàng Matien, Sa-ien. Awơi Nãi TiLơr tức giận đánh đuổi Jahuruơi “bay ra cạnh rào, văng vào bụi rậm”.
Rắp tâm trả thù. Jahuruơi vượt đèo băng suối đến xứ sở 17 đầu vua chúa Cur, Jawa,…; vua Lửa Tumuh, ông bà thần Ếch kỳ dị, vua thần Bão tố , bà thần Gió Lốc…xin cầu họ kéo quân đánh đổ anh em nhà TiLơr. Jahuruơi dựng chuyện rằng TiLơr vô cớ đánh hắn, doạ giết hắn chỉ vì hắn là người khách lạ, là Raglai, là Chăm. Các đầu vua chúa, các vị thần ác cùng tập trung quân tại tảng đá thần, cây cau thần một bụi, nơi xứ sở bãi sình lầy có khúc gỗ thần trôi nổi. Họ quân kéo đến bằng ngàn, bằng trăm…, các loài độc vật như nhền nhện, rắn rít, cọp beo, ong độc, kiến độc …hàng đàn hàng lũ.
Biết chúa chủ mình đang bị Jahuruơi rắp tâm hãm hại, chú gà trống thần vườn cau dò la các nơi đóng quân của quân thù, báo cho mọi người hay biết để chuẩn bị chống giặc. Awơi Nãi TiLơr cùng Ujàc rầm rộ kéo quân đến đá tảng thần cây cau thần một bụi.
Trên đường ra trận, hai nàng công chúa con vua thần Biển khơi - Matien và Sa-ien - sinh hạ hai đứa bé trai - ChiBlang và Langjùq. Chúng là kết quả tình yêu của hai nàng với Chiyàc, Chijaràc chứ không phải với những người chồng được cưới được xin.
Trong lúc đó, ở xứ sở của Awơi Nãi TiLơr, Vua thần Biển Putau Tuwaq và chúa mẫu Valìq tức giận vì Nãi TiLơr cố chấp bắt con gái họ phải lìa cha xa mẹ, đã làm phép dâng nước biển giết hại mọi người. Hay được tin dữ, Awơi Nãi TiLơr lập tức sai gà trống thần bay về xứ sở cậy nhờ hai chàng Chiỳac và Chijaràc giúp sức. Hai chàng trai đã dùng quạt thần vàng hoá phép cho nước rút đi.
Sau khi làm phép cứu bản cứu làng, Chiyàc và Chijaràc lên ngựa thần, cưỡi tê giác thần, tay cầm gươm vai vác giáo bay ra chiến trường giúp Awơi Nãi TiLơr. Sau nhiều trận giao tranh ác liệt, Chiyàc và Chijaràc lập mưu chém chết ông bà vua thần Ếch kỳ dị, chiếm lấy các bảo bối như dây thừng thần biết tự trói, ngải thần sống, ngải thần chết để cứu quân mình, giết quân giặc buộc quân 17 đầu vua chúa phải xin hàng, cắt đất phân chia ranh giới, hứa vĩnh viễn về sau không còn xâm hại.
Thừa thắng xông lên, hai chàng dũng sĩ Chiyàc, Chijaràc xông vào trận địa dùng dây phép bắt trói thần lửa Tumuh, buộc Tumuh phải cống nạp voi thần để được cởi trói và xin nộp hai con gái là Awơi Chrỉq và Awơi Ranỉq-pariaq về làm tôi tớ cho Awơi Nãi TiLơr để được đổi mạng.
Trong lúc đó, hai nàng Matien và Sa-ien đến xứ sở vua thần Bão tố vua thần Gió lốc dùng mưu làm cho phép thần của hai người này không linh nghiệm và giết chết họ.
Sau khi đánh đổ 17 đầu vua chúa và các vị thần ác, đích thân Awơi Nãi TiLơr truy tìm Jahuruơi, kẻ đã gây ra những cuộc chiến đẫm máu. Nàng đã lập mưu, bắt giết được Jahuruơi đang sợ hãi rúc trốn trong gộp đá.
Phần thứ tư cũng là phần kết (Từ khúc ca 42 đến khúc ca 54): Đoàn quân chiến thắng trở về. Đám cưới của Chiyàc, Chijaràc với hai công chúa con Vua thần Biển khơi và đám cưới của Chi Blang và Langjùq với hai nàng con vua thần Lửa Tumuh.
Cuộc chiến kết thúc, nơi bãi đầm lầy, cây cau thần một bụi, đoàn quân chiến thắng của Ujàc và Awơi Nãi TiLơr tắm táp tẩy rửa những vết máu còn vương trên quần áo, tẩy rửa mọi thù oán, tị hiềm.
Vợ chồng Putau Tuwaq hoá phép đổ dầu trơn nơi gốc me gian trại chờ thần trên đường trở về của đoàn quân cho “trượt chân ngựa, ngã chân voi, té chân người”. Biết đây chính là mưu kế của cha mẹ mình, hai nàng công chúa Matiên và Sa-ien đã làm phép cho trôi đi dầu trơn chỉ trong nháy mắt. Xong việc, Matien và Sa-ien đòi trở về quê hương. Khi biết sự tình trước kia hai công chúa vì bị ép buộc phải cưới Chiganrưh và ChiGaval nhưng đã yêu thương và có con với hai chàng Chiyàc, Chijaràc, nàng Awơi Nãi TiLơr hứa sẽ tổ chức lại đám cưới ưng dạ thuận ý cho hai nàng. Thấy Awơi Nãi TiLơr hiểu được cái bụng, biết được cái gan của mình, hai công chúa con Putau Tuwaq bằng lòng ở lại.
Về đến nhà, Awơi Nãi TiLơr lập tức tổ chức lại đám cưới cho hai công chúa con thần Biển khơi - Matien và Sa-ien - với hai chàng Chiyàc, Chijaràc, cùng lúc làm đám cưới Huaq vu cho Chi Blang và Langjùq với hai nàng con vua thần Lửa Tumuh là Awơi nãi Chrỉq , Awơi nãi Ranỉq-pariaq.
Mọi người sống hạnh phúc, cùng nhau xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh, ấm no.
4. Tư cách sử thi (cổ sơ) của Awơi Nãi TiLơr
4.1. Trước hết, có thể thấy Awơi Nãi Tilơr đáp ứng đầy đủ những yêu cầu cơ bản của nội dung tác phẩm sử thi với cả 4 tiêu chí mà Hegel đề xuất: Tính khái quát, Tính xung đột, Tính lý tưởng, Tính giáo huấn. Hình thức của Awơi Nãi Tilơr cũng thể hiện rõ những đặc điểm thi pháp sử thi.
4.1.1. Tác phẩm tự sự dân gian trường thiên với tầm khái quát rộng lớn
Awơi Nãi Tilơr gồm hơn 36.000 dòng. So với sử thi Mahabharata đồ sộ của Ấn Độ tận 110.000 sloka (câu thơ đôi), tức 220.000 dòng thơ, thì akhàt jucar Raglai như vậy vẫn còn khiêm tốn, nhưng so với Iliad (Hy Lạp) 15.996 câu thơ hexamètre thì độ dài akhàt jucar Raglai cũng khá đáng nể. Đáng nể nếu so với nhiều sử thi của những dân tộc thiểu số khác của Việt Nam, thí dụ khan Đăm San (Ê đê) 2070 dòng, mo Đẻ Đất Đẻ Nước (Mường) 3456 câu...
Không chỉ dày dặn về dung lượng câu chữ, Awơi Nãi Tilơr nói riêng, akhàt jucar Raglai nói chung còn có tầm ôm chứa hiện thực sâu rộng. Awơi Nãi Tilơr không chỉ xoáy vào diễn biến những kỳ tích của các anh hùng mà còn nhẩn nha, thong dong miêu tả, thuật kể cặn kẽ, tỉ mỉ, sinh động những khung cảnh môi trường (nhà sàn, đồi núi, sông biển…); chân dung cũng như trang phục, trang sức, công cụ, vũ khí của các nhân vật; những chuyến đi từ xứ sở trần gian tới xứ sở thần linh, xứ sở của tổ tiên ông bà; nhiều nhất là những cảnh tiếp đón khách, cúng nhang, những đám cưới tiệc tùng ăn năm uống tháng… “Lối trì hoãn sử thi” với cách “miêu tả đậm đặc” như vậy khiến akhàt jucar, ở chừng mực nhất định, trở thành như một “bách khoa thư” về nhiều mặt văn hóa Raglai, từ quan niệm vũ trụ, nhân sinh, tín ngưỡng đến lễ hội, phong tục, tập quán, từ kinh tế đến tổ chức và các quan hệ xã hội…
4.1.2. Tác phẩm tự sự dân gian xoay quanh các nhân vật anh hùng tiêu biểu trong những cuộc chiến tranh có ý nghĩa quan trọng với toàn thể bộ tộc
Như các sử thi Tây Nguyên khác, akhàt jucar Raglai tập trung vào một hoặc vài nhân vật anh hùng tiêu biểu cho lý tưởng của bộ tộc. Awơi Nãi TiLơr, nhân vật chính trong akhàt jucar mang tên nàng là một cô gái sớm mồ côi cha mẹ nhưng được mọi người yêu mến và kính phục tôn làm pu/po palơi(chúa làng). Vẻ đẹp nhan sắc cũng như đạo đức, tài năng, ý chí và lòng dũng cảm của nàng nổi tiếng khắp xứ người xứ thần. Awơi Nãi TiLơr như một hình tượng mẫu mực mà người Raglai noi theo. Cho đến tận ngày nay, nàng vẫn ở trong những thành ngữ quen thuộc : “Tài như Tilơr”, “Hay như Tilơr”(để chỉ người nào đó giỏi trong việc săn bắn, làm nương rẫy hay xử luật tục đúng, phù hợp lòng dân…).
Chuỗi hành động chủ yếu của Awơi Nãi TiLơr cũng như các nhân vật chính trong akhàt jucar Raglai đều liên quan đến những kỳ tích của họ trong lao động sản xuất, và nhất là trong những cuộc chiến tranh giải quyết xung đột (về quyền lợi vật chất và / hoặc tinh thần) giữa các bộ tộc. Giao tranh giữa quân của hai chúa làng TiLơr và Ujàc với quân các đầu vua chúa trong Awơi Nãi Tilơr là cuộc chiến rộng lớn, căng thẳng quy tụ toàn thể các bộ tộc, với đông đảo thần linh thiện ác hỗ trợ phe này hoặc phe kia. Những đội quân “đi rầm rập , từng tốp rực ánh sao đêm, rực sáng như các vì sao / Thật đẹp đẽ, thật là oai phong quá”. Các trận đấu quyết liệt, dữ dội:
Một sức xông trận cả ngàn quân,
Một hơi xốc tới cả trăm quân
Chém như chuối rừng, xuyên như chuối nhà
Chém trên da không cho thoát, chém trên xương không cho khỏi
Gươm thần chớp toé lửa, rìu chém máu đỏ tươi đọng thành vũng
Một lần múa gươm chết nửa xứ sở
Đao phép văng xoáy chết hết một làng
Chém chết đằng trước, đằng sau mọc lại như nấm, xứ sở tối đen như mực. Màn đen sương mù bốc tận trời cao, trút rơi mưa đá, gió giông lốc xoáy…
Nhưng chiến tranh thường không mang tính hủy diệt mà là chiến tranh bảo vệ cộng đồng, giành người đẹp, bắt giữ tù binh về làm tôi tớ…, sự tập hợp lực lượng trong chiến tranh dẫn đến liên minh bộ lạc. Không có sự say máu, hiếu chiến. Kết thúc akhàt jucar Raglai luôn là hình ảnh các anh hùng, dũng sĩ cùng quân đội tắm rửa nơi sông to biển lớn tẩy sạch oán thù, để trở về buôn làng với tưng bừng lễ hội, dựng cây nêu, uống rượu cần trong những lễ cưới rộn vang tiếng mã la, tiếng cồng chiêng suốt ngày mãi đêm…
Sau chiến trận mọi tai vạ xui xẻo đem tẩy rửa nơi vũng nước thần, gột sạch tại tảng đá thần,
Gội đầu, bôi dầu trừ tai hoạ độc vạ, rửa sạch máu quân vua chúa
Tẩy rửa, hất đổ tất cả cho trở về góc biển chân trời khi ngày xế mặt trời tắt lặn
Hoạ thảm khốc máu quân chúa, kiếp tai ương máu quân vua
Chà sạch vòng còng tại tảng đá thần, cây cau thần một bụi
Giặt giũ áo quần nơi tại xứ sở đá tảng thần, khúc gỗ thần trôi nổi.
Bên tảng đá thần bôi dầu láng, chải suôn mái đầu, bên đá tảng thần tắm rửa kì cọ tránh mang hoạ chiến tranh về nhà
Ngày này ngày sau hết chiến tranh tại đây,
Hết giết chóc tại đây
Tận diệt thần thuế chém giết điên loạn,
Không còn nữa thần thuế giết chóc từ nay đến mãi sau này…
4.1.3. Tác phẩm tự sự dân gian với tính kỳ vĩ và màu sắc huyền thoại
Như các sử thi Tây Nguyên khác, Akhàt jucar Raglai thường dùng thủ pháp ngoa dụ, phóng đại, những tưởng tượng phóng khoáng bay bổng thể hiện thực tại qua một cảm quan huyền thoại kỳ vĩ.
Awơi Nãi Tilơr kể về nhiều hành trình của các nhân vật tới những xứ sở thần linh xa xôi, trên lưng những con ngựa thần, tê giác thần có cánh:
Này chú ngựa thần ơi,
Hãy dang cánh bay tận trên kia,
Mình đi chạm tới trời, bây giờ đi chạm tới mây.
Đi với những đám mây trắng đang bay
Chiến tranh trở thành nơi tranh đua giữa các lực lượng con người và thần linh với đủ “các phép thần phép linh nghiệm biến hoá, các phép thần tài cứng cỏi”. Quyết định chiến thắng của phe Tilơr, Ujac không chỉ là tài phép của hai vị anh hùng thủ lĩnh đó mà còn nhờ chiến công của hai chàng Amã dam Chi Yàc, Amã dam ChiJaràc khôn khéo đoạt lấy ngải thần màu nhiệm của ông bà vua thần Ếch Chacruah, dây thừng tự trói của vua thần Lửa Putau Tumur cũng như chiến công của hai nàng công chúa con vua thần Biển khơi dùng mưu làm vô hiệu hóa bùa phép của vua thần Bão tố vua thần Gió lốc.
Bằng ngải thần sống ngải thần chết,
Bằng vôi thần sinh ra mây mù mây đen bao phủ,
Bằng đá mài thần sinh ra đá tảng chắn ngang,
Cái chai thần sinh ra nước biển mênh mông…
Tất cả đều ở trong gùi đan hoa của ông bà vua thần kì dị Chacruah.
Đủ tất cả phép thần kì, đủ mọi thứ biến hoá chỉ trong nháy mắt…
Từ lao động, sản xuất (kiếm trầm hương, kiếm ngà voi…) đến hôn nhân, chiến tranh…, mọi hoạt động của con người đều mở ra trong những chiều kích rộng lớn phi thường của tự nhiên, vũ trụ. Xứ sở con người trần gian hiện ra trong những quan hệ tâm linh, siêu nhiên với xứ sở của ông bà tổ tiên, xứ sở của các vị thần linh…
4.2. Xét kỹ hơn theo sự phân biệt kinh điển của Meletinski giữa sử thi cổ sơ (archaic epic – phản ánh vận động lịch sử của các dân tộc từ nguyên thủy sang xã hội có giai cấp) và sử thi cổ đại (antique epic – phản ánh vận động lịch sử của các dân tộc bắt đầu hình thành nhà nước sơ khai), có thể xếp Awơi Nãi Tilơr vào sử thi cổ sơ do tính truyền khẩu, tính nguyên hợp và sự hồn nhiên, chất phác trong lối nghĩ, lối cảm, cách biểu đạt của nó.
4.2.1. Sử thi dân gian hình thành và lưu truyền qua phương thức diễn xướng hát kể
Trong kho tàng văn chương truyền miệng của người Raglai, truyện kể dân gian chiếm tỷ lệ lớn, bao gồm thần thoại, truyền thuyết, sử thi, cổ tích, sự tích… Người Raglai có hai hình thức thể hiện truyện kể dân gian: (1) akhàt ter là truyện kể, kể bằng lời nói thường (văn xuôi) và (2) akhàt jucar là truyện hát, hát kể sử dụng một hoặc vài điệu dân ca. Akhàt jucar được hát kể (manhĩ ), thường với các điệu majieng, siri, alơu… theo lối hát cổ. Những câu hát thường đi cặp và đăng đối (parallel) với nhau. Tác phẩm Akhàt jucar Raglai được lưu chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác nhờ trí nhớ của những nghệ nhân nghiệp dư, không biết chữ, và qua hình thức hát kể truyền khẩu.
Khi nghe hát kể akhàt jucar "con trai ngồi xếp bằng. con gái ngồi xếp nghiêng", "người hát cũng ngồi nhưng khi mệt thì cứ nằm mà hát cũng được" [Vũ Anh Tuấn (giới thiệu) 2004: Uđai – Ujàc. NXB Khoa học Xã hội, tr. 20]. Người nghe không chỉ lắng nghe mà dán mắt vào từng thể hiện nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của người kể, người kể thì nhập thân vào từng nhân vật trong truyện. Cả người hát kể lẫn người nghe đắm chìm trong một khí quyển thiêng liêng, với niềm tin rằng các vị thần, tổ tiên ông bà đang trở về, tham dự trong câu chuyện của họ. Akhàt jucar Raglai là sử thi “sống” vì cho đến tận ngày nay (dù suy giảm về khuôn khổ), chúng vẫn được hát kể sống động trong sinh hoạt cộng đồng, trong ngôi nhà của gia tộc.
4.2.2. Sử thi dân gian mang tính nguyên hợp và gắn bó với nhiều mặt sinh hoạt văn hóa cổ truyền
Diễn xướng Awơi Nãi Tilơr nói riêng, Akhàt jucar Raglai nói chung gắn bó hữu cơ với phong tục và lễ hội, với nhiều mặt sinh hoạt văn hóa cổ truyền… tạo nên một tổng thể văn hóa sử thi mang đặc trưng Raglai rõ rệt.
Người Raglai ai cũng biết truyền thuyết kể về núi cô Tiên (phía Bắc thành phố Nha Trang) chính là hình ảnh của nữ thần Tilơr nằm xõa tóc, đầu hướng về núi, chân thả xuống biển, chặn đường đàn voi thần để xin ngà cống nạp cho Putau Tuwaq hoặc truyền thuyết về Hòn Chồng (bên bờ biển Nha Trang) chính là tảng đá lớn nơi nàng Tilơr giặt giũ áo bào chiến trận.
Awơi Nãi Tilơr được người Raglai tôn sùng như một nữ thần. Tên nàng được đặt cho một số làn điệu chơi với các nhạc cụ truyền thống như mã la, sáo talẽq, chapi…
4.2.3. Sử thi dân gian với sự hồn nhiên, chất phác trong lối nghĩ, lối cảm, cách biểu đạt
Awơi Nãi Tilơr đậm đặc những từ ngữ cổ, những cách nói so sánh, ẩn dụ, hoán dụ cho thấy phương thức tư duy cụ thể hóa, giản dị:
Nàng Awơi Tilơr mật to, gan lớn
Mật to bằng cái nia, lá lách to bằng cái nong
Tác phẩm thể hiện tâm trạng, tính cách nhân vật chỉ qua những hành động, lời nói bộc trực, xa lạ với thủ pháp phân tích nội tâm. Trong đoạn miêu tả hai nàng công chúa con vua thần Biển khơi, Awơi MaTien và Awơi Sa-ien, ngay trong ngày cưới với Chiganrưh, ChiGaval, lại gặp gỡ, yêu đương hai chàng trai khác là ChiYàc và Chijaràc chẳng hạn, những xúc cảm éo le của các nhân vật cũng được diễn tả rất thô sơ
Chàng ChiYàc cái bụng đã thương quá,
Amã Chijaràc hơi thở đã hổn hển rồi (…)
Awơi MaTien, Awơi Sa-ien nhìn hai chàng chúi mắt
Hai chàng chẳng chịu buông cái nhìn đăm đắm vào mắt các nàng Hai nàng vừa sợ hãi vừa xấu hổ nhưng chẳng biết làm sao, không biết làm khác
Không biết nghĩ sao vì đã cưới xin ông bà với đàn ông khác, đã mua xong người yêu, đã thành chồng thành vợ với người ta…
Trùng điệp là một đặc điểm của tự sự sử thi. Ở những sử thi cổ sơ, để đáp ứng nhu cầu dễ nhớ, dễ thuộc trong diễn xướng truyền khẩu, sự lặp lại càng thống lĩnh. Từ khung cảnh môi trường đến trang phục, vũ khí, hành động của các vị thần, các dũng sĩ; từ những lời cầu cúng, các lễ vật khấn bái đến cách làm bùa rải ngải; từ nghi thức tiếp đón khách đến lễ hỏi, lễ cưới của các nhân vật… trong Awơi Nãi Tilơr, tất thảy đều được miêu thuật trong những khuôn mẫu (module) cố định. Và khá nhiều trường hợp chỉ lặp lại giản đơn, không tăng hiệu quả nghệ thuật. Độc giả sẽ không hiếm khi cảm thấy (như những người xử lý văn bản sử thi Awơi Nãi Tilơr) nhàm chán vì sự lặp đi lặp lại quá nhiều những khúc, đoạn nhất định trong câu chuyện. Như chuyện Awơi Tilơr bị Tuwaq ép nộp báu vật kỳ nam, ngà voi, phải cậy nhờ trai tráng vào rừng tìm kiếm nhưng tất cả đều trở về tay không để cuối cùng chính nàng phải lên đường…đã được nói đi nói lại với nhiều đối tượng, con người lẫn thần linh, bằng cùng một lời kể không thêm không bớt.
5. Những nét đặc sắc của sử thi Awơi Nãi TiLơr
Bên cạnh những đặc điểm thể hiện mẫu số chung của loại hình sử thi nói chung, sử thi cổ sơ nói riêng, Awơi Nãi TiLơr cũng mang những nét đặc trưng của Akhàt jucar Raglai và cả những độc đáo riêng của chính nó.
5.1. Akhàt jucar Raglai với hình tượng “sông to biển lớn”
Núi rừng là bối cảnh không gian, môi trường điển hình, nhiều khi duy nhất trong các sử thi Tây Nguyên. Điều ấy thật tự nhiên, dễ hiểu.
Nét đặc sắc trong các Akhàt jucar Raglai là bên cạnh núi rừng không thể không kể đến hình tượng biển cả. 54 khúc hát của Awơi Nãi Tilơr xuất hiện dày đặc các từ “biển lớn”- tasìq, “sông to”- kròc (160 lần) “vua thần Biển” (433 lần).
Tương quan giữa núi rừng và biển cả có thể được thấy qua hệ thống thần linh trong Akhàt jucar Raglai thường được chia làm hai nhóm: nhóm thù hằn, hãm hại và nhóm hỗ trợ, giúp đỡ. Ở Awơi Nãi Tilơr, nhóm thù hằn, hãm hại bao gồm Thần rừng thiêng nước độc (Putau Salah vlah riya), vua Thần lửa Long ca, Tổ thần lửa (Putau Lõngca Inã Gadhir), thần độc ó Malai (putau Camlai majin), thần Chân trời chiến trận (Pu Ingdai Tacai Langỉq), vua Ốc Bươu kì dị (Putau Chacruah chacring aring avau), Ông vua thần đất nung Bà thần đá tảng (Putau Vhòq Mỏq tili), vua thần độc Rắn tinh, Hổ tinh (Putau cơi rảc mỏq rảc), vua thần Gió lốc (Putau Rivùq putau Agal), … nghĩa là các thế lực có nguồn gốc từ núi rừng, từ lửa. Họ tập hợp bên phe đối địch giao tranh tiêu diệt quân của Awơi Nãi Tilơr. Nhóm thứ hai, ngược lại, gồm các vị thần nguồn gốc sông biển, gắn với nước, như vua thần Biển khơi (putau Tuwaq), vua thần rồng (Putau Samagrãh Samagrỉq rìq digơi), thần Mương máng trên trời cao, ao đầm dưới đất bằng (Pu Vanữq dlòc ruvòc rađàq)… có quan hệ thân thiện hơn với con người. Họ thường thuận cho nhân vật chính được làm con dâu, con rể, qua đó, con trai, con gái của họ thường mang quân tướng thủy tộc giúp đỡ nhân vật chính chiến thắng trong giao tranh. Hai chàng Jihia (chồng của Tilơr) và Chital (chồng của Vala và Via Carưh, em gái Ujàc) - đều là con trai thần Đập nước trên cao, Mương máng không trung - luôn kề vai sát cánh cùng buôn làng đánh bại Jahuruơi và 17 đầu vua chúa.Thần Biển Tuwaq vì căm tức Nãi TiLơr bắt đi hai cô con gái của mình đã dâng nước ngập làng ngập bản, lại đổ dầu trơn trượt đường về của quân TiLơr, nhưng chính hai nàng công chúa con thần Biển theo TiLơr về không phải làm nô bộc mà thành em dâu, đã dùng những tài phép thần thông chỉ riêng có của biển, giúp TiLơr và các dũng sĩ Raglai chiến thắng.
Sông to biển lớn cũng gắn bó với nhiều motif quan trọng trong cuộc đời của các nhân vật anh hùng như hôn nhân, sinh nở, chiến tranh… Những nhân vật anh hùng sinh ra nơi cửa biển, nơi giáp mối trời đất “ban ngày lớn nhanh như trái bí, ban đêm lớn nhanh như trái bầu”. Sau khi sinh, những người mẹ tắm nơi sông biển để thanh tẩy, “trở lại trẻ xinh”. Trong Awơi Nãi TiLơr, vua chúa tụ quân nơi“bãi sình lầy có khúc gỗ thần trôi nổi” và sau bao giao tranh, chiến trận kết thúc ngay cạnh biển khơi với những con sóng vỗ bờ “như bà chúa Valìq đang ngày đêm dệt vải”. Kết thúc can qua, những nhân vật anh hùng ra sông to biển lớn để tắm gội, tẩy rửa mọi tị hiềm hãm hại…
Hình ảnh sông to biển lớn không chỉ thấy qua Akhàt jucar mà còn hiện diện ở các thể loại ngữ văn dân gian văn khác cũng như nhiều tín ngưỡng, phong tục tập quán Raglai.
Truyện cổ Raglai kể về loài song mây không bao giờ vượt quá ngọn cây vì nếu vươn cao như thế chúng trông thấy biển sẽ vì nhớ biển mà chết khô; rồi loài vượn (kuat), dọc vọc (hawa), đười ươi (prưng), tinh tinh (salòc) vốn bị khỉ lừa vào đất liền, vẫn thường kêu hú vang dài nỗi nhớ biển đảo, nơi cư trú ngày xưa mà nay không thể nào trở về được nữa.
Có không ít những câu thành ngữ, ca dao, dân ca Raglai phản ánh tín ngưỡng biển cả. Khi dựng nhà, người già thường dạy con cháu phải theo hướng đầu nằm gối về biển, chân gác lên núi: “Acoq đal tasìq, tacai trùc chưq”.
Trong nhiều nghi lễ vòng đời của người Raglai ở Khánh Hòa, những con tàu ahòq chở lễ vật (rượu trắng, trầu cau, cơm, thịt…) được mang thả trôi trên sông suối để xuôi về biển xa, về với ông bà, cầu xin ông bà giúp đỡ, che chở cho cuộc sống yên lành. Đặc biệt, trong lễ bỏ ma, nghĩa là cuộc lễ chia tay vĩnh viễn của người chết với người thân, những con tàu Kagor và Kagau trên nóc nhà mồ sẽ đưa linh hồn của họ trở về lại xứ sở của cha ông, tổ tiên ngày trước.
Yếu tố trầm tích văn hóa biển trong tâm thức Raglai có thể chính là hồi ức sâu xa của cư dân gốc Đa đảo từng những thời kỳ lâu dài sống gắn bó mật thiết với đại dương.
5.2. Akhàt jucar Raglai và sự phản ánh những quan hệ giữa văn hóa bản địa với văn hóa Chăm, xa hơn nữa với văn hóa Ấn Độ
Người Raglai, người Chăm cùng gốc Malayo - Polynesien.Và như trên đã đề cập, họ có những quan hệ tiếp xúc, giao lưu lâu dài trong lịch sử. Vì vậy, trong Awơi Nãi TiLơr nói riêng, akhàt jucar Raglai nói chung, rất nhiều khi nhắc đến người Chăm. Trong khuôn mẫu hỏi / đáp về người lạ đến buôn làng, cặp đăng đối “người Chăm” và “người khách” luôn thể hiện sự đồng nhất giữa hai đối tượng, như người bạn hữu thân thiện, thường lui tới và thường được đón tiếp ân cần, với thiện cảm:
Ơi này, bái xin thần hồn ông bà trước tiên để mời khách cho ông bà đừng quở phạt
Cả trong khuôn mẫu câu chửi cửa miệng cũng thấy hình ảnh người Chăm gần gũi cận kề với Raglai:
… tổ cha nó, đồ quỷ người Chăm, quân buôn rong lung tung
… tổ mẹ nó, quân Raglai tìm lõi củi khô, săn bắn chim
Đối chiếu với văn học dân gian Chăm, ta lại thấy người Chăm coi Raglai là “Chăm núi”, là em của người Chăm (“Chap sa ai Raglai adơi” – “Chăm là chị, Raglai là em” - hay “Chap ai Raglai adơi” – “Chăm là anh, Raglai là em”), cụ thể hơn, chính là “em út”, người thừa kế, nuôi dưỡng cha mẹ và giữ “chiết a tâu” của tộc họ, gia đình (nên người Raglai giữ y trang của vua Chăm và hàng năm đến lễ hội Katê thì người Chăm lên xứ rừng của Raglai làm lễ mang về các tháp Chăm cúng tế).
Ấn tượng đậm nét trong Awơi Nãi TiLơr và nhiều akhàt jucar Raglai là hình ảnh chú gà trống thần trên cành cau cành dừa ở xứ sở trần gian con người cũng như xứ sở ông bà tổ tiên, xứ sở các vị thần. Cau và dừa hẳn là liên quan với tên các dòng họ Raglai cũng như thị tộc Cau, thị tộc Dừa của người Chăm. Chú gà trống thần như một bậc huynh trưởng mách mọi điều sắp tới, khuyên bảo những xử sự khôn ngoan, đồng thời như một vị thần bảo trợ buôn làng thì rất gợi nhớ vai trò quan trọng của biểu tượng gà trống trong những nền văn hóa Đông Nam Á hải đảo (mà Clifford Geetz đã phân tích cực kỳ sắc sảo trong công trình Cắt nghĩa những nền văn hóa).
“Giặc Jawa”, “giặc Cur” trở đi trở lại trong rất nhiều cặp câu thơ của Awơi Nãi TiLơr về những thế lực kẻ thù luôn rình rập bản làng. Điều này cũng không hề ngẫu nhiên. Trong thực tế lịch sử, nhiều thế hệ người Raglai, người Chăm đã phải chống trả với những thế lực ngoại xâm từ Malaysia (Jawa, thế kỉ VIII - IX) và Campuchia (Cur, thế kỷ X).
Ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ qua vai trò truyền thừa của người Chăm cũng có những dấu ấn trong Awơi Nãi TiLơr. Chẳng hạn như quan niệm về các thần linh cai quản ba tầng không gian: trên trời – mặt đất – dưới lòng đất. Nếu người Ấn Độ đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Lửa, cả lửa trên trời (thần Surya), lửa không trung (thần Indra), lửa mặt đất (thần Agni) thì người Raglai cũng tôn thờ cả thần chúa mẫu Lửa không gian (Saganã Via Lùc) lẫn thần Lửa thiêng lòng đất (Putau Longca Longgadir). Những khúc ca ca tụng Putau Longca rất gần gũi quan niệm Ấn Độ về thần Agni trên giàn lửa thiêng hiến tế, tiếp nhận lễ vật của con người dâng lên các vị thần linh:
Lửa thần Long-ca, lửa thần tổ mẫu Gadir bàn tán với nhau rồi để vụt ngọn lửa lên:
-Dậy đi thôi, hãy dậy đi thôi ơi bọn đàn em,
dậy đi thôi, hãy dậy đi ơi bọn đàn chị.
Ơi này hãy ăn lông con heo,
Bây giờ hãy ăn lông con trâu.
Hãy cháy cho đến khi sạch trơn sạch trụi,
Cháy đi cho đến khi sạch bóng những lông con heo,
người ta làm lễ cần con bắt rể.
Ăn hết lông con trâu người ta làm lễ cần con bắt rể đây mà…
Ngọn lửa bừng bừng bốc lên.
Chúa thần Lửa Long-ca nói:
- … Hãy ăn đi, ăn lễ vật quý này đi, họ ăn sau, với mình cũng bằng không thôi mà[1].
Chúng ta cháy thế này là ăn trước đấy
Ơi này ngọn lửa bùng lên, bùng cháy lên đi.
Tình tiết voi đầu đàn rút ngà tặng cho Awơi Nãi TiLơr rồi gục xuống chết giống một cách lạ lùng với motif về Vương tượng trong các Jatakas (Những câu chuyện tiền thân Đức Phật) của Ấn Độ. Chuyện quân đội của TiLơr ngạc nhiên đến hoang mang, hoảng hốt khi thấy quân đối phương đã bị tiêu diệt, nhờ ngải của ông bà vua thần Ếch kỳ dị lại vùng dậy chiến đấu thì y hệt như tình cảnh của quân đội Rama trong chiến tranh với quỷ Raksasa trên đảo Lanka được miêu tả trong sử thi Ramayana.
5.3. Akhàt jucar Raglai với hình tượng nhân vật nữ anh hùng
Awơi Nãi TiLơr là akhàt jucar Raglai duy nhất (cho đến nay được sưu tầm) mang tên của nữ nhân vật anh hùng và thể hiện đặc biệt ấn tượng vai trò thống lĩnh của người nữ.
Thường các sử thi khác có đề tài về những nam nhân vật anh hùng và chiến tranh của họ để cướp vợ / giành lại người vợ bị cướp đoạt, bảo vệ uy danh của mình và quyền lợi của cộng đồng. Trong khi đó, những cuộc giao tranh trong Awơi Nãi TiLơr lại đều khởi phát do nhân vật nữ bị xúc phạm kiên quyết bảo vệ danh dự của mình (Ở đoạn đầu là cuộc thách đấu giữa TiLơr với hai nàng công chúa con vua thần Biển khơi dám nói xấu sau lưng TiLơr, kết quả là hai công chúa thua cuộc phải theo TiLơr về xứ sở nhà sàn. Cuộc chiến trung tâm có nguyên cớ là do Jahuruơi đến chọc ghẹo Awơi TiLơr và hai nàng Awơi Matien, Awơi Sa-ien, khi bị trừng trị, hắn đã tức tối tập hợp quân vua quân chúa, lôi kéo các vị thần ác trả thù. Awơi TiLơr và hai nàng Awơi Matien, Awơi Sa-ien ngoan cường chống lại, cuối cùng giành thắng lợi vẻ vang).
Awơi Nãi TiLơrcũng luôn luôn tô đậm sự hơn hẳn về sức mạnh, tài năng, dũng khí của nữ nhân vật anh hùng trong quan hệ đối sánh với các nhân vật nam (trở thành những cái bóng tương đối mờ nhạt). Khi vua thần Biển khơi đòi cống vật trầm hương, ngà voi quý hiếm, trai tráng lên đường tìm kiếm nhưng đều phải trở về tay không, duy chỉ Awơi Nãi TiLơr một mình thân gái mà lập nên kỳ tích. Lúc xảy ra chiến tranh cũng thế, hai nàng Awơi Matien, Awơi Sa-ien lập tức lên đường cùng Awơi Nãi TiLơr trong khi hai người chồng hèn nhát của các nàng viện đủ lý do lý trấu để ở lại nhà sàn:
Nàng Awơi Matien, Awơi Sa-ien nói:
-Mình đi thôi anh Ujàc ơi...
Awơi Matien không thiết đàn trai giúp,
Awơi Sa-ien cần gì đàn trai đỡ đần.
Tự mình mà đi thôi,
Sống trở về, chết thì nằm lại.
Thật vậy đấy anh ơi.
- ... Trai đực gì mà như thế chứ,
Bây giờ chàng Chi Ganrưh, chàng ChiGaval đấy.
Gái đi tận xứ sở chúa, mình phải đi chứ.
Gái đi tận xứ sở của vua, mình phải đi chứ.
Thật đấy chàng trai ơi.
-Trai gì mà lại ăn một chỗ,
Trai gì mà lại tịch một nơi,
Hổ danh nào ai cho bằng
Mang tiếng nào ai cho kịp
Hình ảnh người nữ anh hùng với những chiến công oanh liệt được tác phẩm khắc họa với tất cả sự sảng khoái, tự hào:
Nói dứt lời nàng Awơi Tilơr làm phép Srah cho lưỡi đao, lưỡi kiếm thần của mình,
Cây gươm thần của nàng tức khắc bay từ bờ bên này biển cả bao la đến tuốt tận bờ bên kia…
Cây đao thần đã được làm phép ganrưh gaval của nàng Awơi Tilơr tạo thành một cầu vồng lửa trên mặt biển mênh mông khiến cho Vua chủ thần linh Putau Tuwaq, chúa thần mẫu Via Valìq đờ cả người, mọi người sợ sệt ngây ra đứng nhìn xem sự việc …
Và chắc chắn cực kỳ hiếm trong các sử thi anh hùng là những trường đoạn miêu tả hai nàng Awơi Matien, Awơi Sa-ien sinh con trên đường ra trận. Vốn là con thần Biển khơi, các nàng nôn nóng định dùng phép thần cho những hài nhi lớn bổng tức khắc để có thể rảnh rang chiến đấu. Nhưng Awơi Nãi TiLơr can ngăn, nàng muốn những đứa trẻ lớn lên bình thường, nàng nhận trở thành như người mẹ nuôi dịu hiền chở che, chăm bẵm chúng, mang theo chúng vào những cuộc chiến hào hùng của người tráng sĩ:
Để Awơi TiLơr ta mang, ta bế theo như đi chơi thôi
Sẵn dịp Awơi TiLơr ta đi chu du xứ sở của chúa, chu du xứ sở của vua
Để Awơi TiLơr ta đút cho ăn từng miếng…
Để Awơi TiLơr ta dẫn đi chơi cho vui, cho sướng.
Với Awơi TiLơr ta nào khó khăn chi
Quân của chúa làm gì được Awơi TiLơr
Thích thì cứ đứng lại mà chống chọi với Awơi TiLơr này đấy...
Ra trận mà đánh chém
Ra trận chống chọi, đẩy lùi vua quân Cur, chúa quân Jawa
Chiến trận lật đổ đá núi,
Chiến trận nứt đất sập hang
Chiến trận làm cạn khô sông biển
Chiến trận một năm phát sinh một tháng hai ngàn ngày
Túi ví đan hoa đeo lưng phải rách, ví đan hoa trên lưng phải sờn
Cứ để con thơ cho Awơi TiLơr mang theo bế bồng, mang theo nuôi nấng,
Để trẻ chơi đùa khi chống chọi với vua quân Cur, chúa quân Jawa
Có mắc mớ gì đâu, vướng bận gì đâu.
Để Awơi TiLơr ta ôm ấp trong vạt vải, ấp ôm trong vạt áo của Awơi TiLơr ta.
Những người mẹ ôm con vào trận cũng đồng thời đem đến hình ảnh phi thường của những em bé anh hùng trước tuổi:
- Ơi này chị Awơi TiLơr,
Hãy xem con thơ này
Cái miệng còn đang bú mẹ,
Cái tay còn đang bóp vú
Mà mắt đã dõi nhìn tận xứ sở của chúa,
Mắt đã phóng nhìn tận xứ sở của vua.
Đã nói thích theo bước cha là dũng sĩ Chi Yàc,
Đã nói thích theo bước cha là dũng sĩ Chijaràc
Theo tiếng kêu vang của lục lạc, theo tiếng chuông ngựa thần,
Thật thế đấy chị ơi…!
Đặc biệt đáng chú ý là đan cài vào câu chuyện người phụ nữ quả cảm trên chiến trường, Awơi Nãi TiLơr còn có câu chuyện về người phụ nữ mãnh liệt trong tình yêu và hôn nhân – một đề tài mang màu sắc thế sự hơn là sử thi anh hùng. Hai nàng công chúa con vua thần Biển khơi - Awơi Matien và Awơi Sa-ien – vì thua cuộc thách đấu phải theo Awơi Nãi TiLơr về xứ sở nhà sàn và phải tuân lệnh TiLơr mà cưới Chiganrưh và ChiGaval. Nhưng, bất chấp vòng còng đã trao, lễ cưới xin đã buộc, hai nàng vẫn dâng tặng trái tim cho hai người tình - Chi Yàc và Chi Jaràc. Các nàng mưu mẹo khéo léo để tránh chung chạ cùng những người chồng mà mình không yêu thương. Chiến tranh xảy ra, thái độ từ chối bổn phận trai tráng, tìm yên ổn nơi nhà sàn của Chiganrưh và ChiGaval càng bộc lộ rõ sự kém cỏi, không xứng đáng của họ. Trên đường ra trận, Awơi Matien, Awơi Sa-ien sinh hạ những đứa con là kết quả tình yêu của họ với Chi Yàc, Chi Jaràc. Và các nàng đã cùng những người tình tài ba, can đảm tung hoành trận mạc, đóng góp quan trọng cho thắng lợi cuối cùng. Đoàn quân khải hoàn về tới xứ sở nhà sàn cũng là lúc hai nàng quả quyết chối từ quan hệ vợ chồng bị ép uổng trước đây, đòi quay lại quê quán mẹ cha với Vua chủ thần biển khơi Putau Tuwaq và chúa thần mẫu Via Valìq. Lúc này, Awơi Nãi TiLơr đã hiểu mối tình thực sự của những đôi trai gái anh hùng bèn xóa bỏ chuyện xưa, đứng ra làm đám cưới cho Awơi Matien, Awơi Sa-ien với Chi Yàc, Chi Jaràc. Sử thi kết thúc tưng bừng trong một chiến thắng kép: chiến thắng kẻ thù xâm nhập bảo vệ buôn làng giàu có, thịnh vượng đồng thời chiến thắng của tình yêu đích thực, xứng đáng với con người.
Có thể nói Akhàt jucar Awơi Nãi TiLơr đã đóng góp vào gia tài sử thi Tây Nguyên vẻ đẹp khá mẫu mực của tiểu loại sử thi anh hùng thuộc loại hình sử thi cổ sơ đồng thời một sức hấp dẫn riêng biệt, độc đáo thể hiện những nét bản sắc văn hóa Raglai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YẾU
1. Nguyễn Tuấn Triết 1991: Người Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
- Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyên, Nguyễn Văn Huệ 1998: Văn hóa & xã hội người Raglai ở Việt Nam. Nxb KHXH.
- Phan Quốc Anh 2008: Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận. – Nxb Văn hoá dân tộc.
- Trần Ngọc Thêm 1996/2004: Tìm về Bản sắc Văn hóa Việt Nam. – Tp HCM: NXB Tổng hợp (tái bản lần thứ 4).
Tp. Hồ Chí Minh, 11/2008
P.T.H – T.K.H