Ở Đồng Nai, người Chơ Ro là một trong số những dân tộc thiểu số bản địa có dân số đông. Trong quá trình định cư, chung sống và phát triển với các dân tộc tại địa bàn, người Chơ Ro đã xác lập cho mình một diện mạo kinh tế - văn hoá - xã hội khá rõ nét. Cùng với 53 dân tộc anh em, người Chơ Ro là một phần của sự thống nhất khối đại đoàn kết dân tộc, hội tụ và giao lưu văn hoá với các dân tộc để tìm ra mẫu số chung là ổn định và phát triển cộng đồng của mình, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, duy trì và giữ gìn bản sắc văn hoá Việt Nam. Văn hoá người Chơ Ro ở Đồng Nai trong giai đoạn CNH-HĐH hiện nay cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, tìm hiểu.
Nghiên cứu những biến đổi về văn hoá của người Chơ Ro trong giai đoạn hiện nay là việc làm cần thiết, cấp bách để tìm ra bài toán về vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá của dân tộc do Đảng và Nhà nước đề ra. Những giá trị nào cần gìn giữ và phát huy, những hủ tục nào cần phải loại bỏ, đó là một quá trình nghiên cứu lâu dài và nghiêm túc. Trong giới hạn bài viết này, chúng tôi tập trung vào nghiên cứu tìm hiểu vấn đề giao lưu và tiếp biến văn hoá, những biến đổi văn hoá người Chơ Ro trong giai đoạn hiện nay. Đây là một đề tài rộng và khó, cần có thời gian, công sức. Những gì chúng tôi trình bày dưới đây là những nghiên cứu bước đầu, sẽ góp phần làm nền tảng cho nghiên cứu sau này của tôi.
1. Vài nét về người Chơ Ro ở Đồng Nai
Dân tộc Chơ Ro ở Việt Nam hiện nay có hơn 26.530 người[1], sống tập trung đông nhất ở tỉnh Đồng Nai, một số cư trú ở tỉnh Bình Phước và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
“Tên tự gọi của dân tộc là Chrau - Jro, trong đó Chrau có nghĩa là Người hay Nhóm người, Tập đoàn người, còn Jro là một danh từ riêng chỉ cộng đồng của họ”[2]. Họ còn được gọi bằng các danh từ có âm gần như vậy: Chơ Ro, Châu ro, Chro, Chrau, Jơ ro, Dơ ro... hay bằng một danh từ phiếm chỉ: người Thượng. Theo tài liệu Hill Tribes of Vietnam, volume 1, Introduction and Overviewcủa tác giả Joachim Schliesinger(1997), (Tạm dịch: Các tộc người ở Việt Nam, tập 1, giới thiệu và tổng quan), qua 3 lần phân loại các nhóm dân tộc ở Việt Nam, dân tộc Chơ Ro đã được nhìn nhận theo 3 kết luận khác nhau. Trong lần phân loại đầu tiên, năm 1959, “Việt Nam có 63 tộc người thiểu số (Minority Groups), người Chơ Ro là một nhóm địa phương thuộc dân tộc Mạ”. Ở lần phân loại thứ hai, năm 1973, “Việt Nam có 59 dân tộc (Ethnic Groups), nhưng không thấy xuất hiện tên gọi “Chơ Ro” trong danh sách phân loại”. Lần phân loại thứ 3 vào năm 1979, “Việt Nam có 54 dân tộc, người Chơ Ro chính thức được liệt kê trong danh sách phân loại này, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me”[3]. Từ năm 1979, trong các tài liệu, sách báo ở Việt Nam, tộc danh Chơ Ro được sử dụng chính thức.
Người Chơ Ro là lớp cư dân cư trú từ xa xưa ở miền núi Nam Đông Dương, nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me thuộc chi miền núi phía Nam. Trước khi có mặt trên những địa bàn cư trú hiện nay, người Chơ Ro phân bố chủ yếu ở vùng đồi núi thấp, nằm về phía Đông Nam của tỉnh Đồng Nai. Dựa trên một số kết quả nghiên cứu khảo cổ học ở Đông Nam bộ đồng thời liên kết với những dấu vết nhân chủng và ngôn ngữ, tộc người Chơ Ro (cùng với một số tộc người Mạ, Xtiêng...) là hậu duệ của cư dân cổ Môn Khơ me và là dân bản địa sinh sống lâu đời ở Đông Nam bộ ngày nay. Cuộc sống của các cư dân này đã có ít nhiều liên kết chặt chẽ, nhằm quản lý khu vực sinh sống rộng lớn của mình.
Tại Đồng Nai, địa bàn sinh sống của người Chơ Ro chủ yếu ở 5 huyện, thị: Long Khánh (chủ yếu ở các xã Xuân Vinh, Xuân Bình), Xuân Lộc (xã Xuân Trường, xã Xuân Phú, xã Xuân Thọ), Định Quán (xã Túc Trưng), Vĩnh Cửu (xã Phú Lý), Long Thành (xã Phước Thái). Người Chơ Ro ở Đồng Nai có 15.145 người[4], xếp thứ ba sau người Kinh và người Hoa.
Kinh tế truyền thống của người Chơ Ro ở Đồng Nai là kinh tế nương rẫy. Nguồn sống của người dân chủ yếu dựa vào kết quả mùa màng. Xưa kia, người dân khai thác vùng đồi núi nơi cư trú của mình để trồng trọt theo lối du canh du cư, nên cuộc sống nghèo nàn và không ổn định. Sau này, người dân đã biết biến rẫy thành đất định canh và phát triển nương rẫy thành ruộng nước, vì vậy đời sống có phần khá hơn. Cùng với nông nghiệp ruộng nước, nương rẫy, việc làm vườn, chăn nuôi, săn bắt, đánh cá, hái lượm... là những ngành kinh tế phụ bổ trợ cho kinh tế nương rẫy. Hai nghề thủ công chính của người Chơ Ro là đan lát và dệt vải. Tuy nhiên, chỉ có nghề đan lát bằng tre mây nứa là phổ biến. Nghề dệt vải bị mai một dần dần và hiện nay mất hẳn.
Vốn văn nghệ dân gian của người Chơ Ro phong phú, với nhiều thể loại: truyện kể, thơ ca trữ tình, múa, lối hát đối đáp, nhiều loại nhạc cụ... Các câu tục ngữ, phương ngôn đúc kết các kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, kinh nghiệm về thiên nhiên và cuộc sống xã hội.
Người Chơ Ro tin mọi vật đều có linh hồn và tin vào sự chi phối con người của các thần linh. Đó chính là nguyên nhân của các kiêng kỵ và các lễ cúng tế. Người Chơ Ro quan niệm rằng có hai thế giới tồn tại. Thế giới thứ nhất là cuộc sống của con người, là vạn vật trên trái đất mà họ cảm nhận được. Thế giới thứ hai là thế giới của những lực lượng siêu tự nhiên, của ma quỷ, của các vị thần... Chính thế giới thứ hai mới thiêng liêng và quyết định cuộc sống loài người. Thầy bóng là cầu nối giữa con người với các đấng thần linh. Người Chơ Ro có tín ngưỡng đa thần: thần lúa (yang va), thần rừng (yang bri), thần suối (yang dal), thần rẫy (yang mir), thần ruộng (yang mơ)...
2. Khái quát tình hình nghiên cứu về người Chơ Ro
So với một số công trình nghiên cứu về các dân tộc ít người ở Tây Nguyên của các học giả người nước ngoài, số lượng các công trình nghiên cứu và khảo sát về người Chơ Ro không nhiều. Tiêu biểu có một số tác giả P. De Barthélémy, P. Raulin, J. Dournes, Bernard Bourotte... trong một số công trình nghiên cứu của các tác giả này có nhắc đến người Chơ Ro làm đối tượng so sánh với tộc người Xtiêng – một tộc người bản địa, sinh sống trên cùng địa bàn. Những bài viết đó nghiêng về việc miêu tả các phong tục tập quán một số khía cạnh kinh tế, văn hóa, kỹ thuật, và cảnh quan địa lí... về vùng Chơ Ro và con người Chơ Ro
Người Chơ Ro được nhắc đến trong các tài liệu nghiên cứu từ giữa thế kỷ XX, do một số học giả người Pháp khác. Tuy nhiên, các tài liệu này không trực tiếp nghiên cứu về người Chơ Ro, mà chỉ lấy người Chơ Ro là đối tượng so sánh với dân tộc Mạ sống cùng địa bàn. Tiêu biểu là cuốn sách Xứ người Mạ lãnh thổ của thần linh của tác giả J. Boulbet, dịch giả Đỗ Vân Anh (1999), Phân Viện Văn hoá thông tin tại TP. Hồ Chí Minh, NXB Đồng Nai.
Các tác giả người Mỹ, một mặt kế thừa những công trình nghiên cứu của người Pháp trước đó về người Chơ Ro, mặt khác, những cuộc khảo sát các nhóm người Chơ Ro nằm về phía Tây bắc Sài Gòn thuộc vùng do quân đội Mỹ và Sài Gòn kiểm soát trong tập sách dày nhiều chương, do các tác giả: L.Joan Schrock, William Stockton, J.Elaine (1966), Minority groups in the Republic of Viet Nam, Headquaters, Department of the Army. Cuốn sách này được biên soạn theo đơn đặt hàng của Bộ Quốc phòng Hoa kỳ, xuất bản năm 1966, có dành một chương riêng để giới thiệu tổng quan về môi trường sống, cấu trúc xã hội, luật tục, phương pháp canh tác, tín ngưỡng, phong tục tập quán… về người Chơ Ro ở Việt Nam.
Tác giả Joachim Schliesingercó nhắc đến người Chơ Ro trong hai công trình nghiên cứu của ông: Hill Tribes of Viet Nam Introduction and Overview, (Các sắc tộc ở Việt Nam - giới thiệu và tổng quan), tập 1, và tác phẩm Hill Tribes of Viet Nam - Profile of the existing hill tribes group (Các sắc tộc ở Việt Nam – Miêu tả sơ lược về cuộc sống của các nhóm tộc người), tập 2, nhà xuất bản White Lotus, Bangkok, Thailand, xuất bản năm 1997.
Nhìn chung, trong lịch sử, người Chơ Ro chưa được các học giả nước ngoài quan tâm, nghiên cứu nhiều. Đôi khi, chỉ là đối tượng so sánh với các dân tộc khác cùng địa bàn như người Xtiêng, Mạ…
Tình hình nghiên cứu người Chơ Ro từ sau năm 1975 có sự phát triển mới và những kết quả đáng kể. Một số các công trình nghiên cứu về các vấn đề văn hóa, kinh tế, xã hội của người Chơ Ro đã được công bố trên các tạp chí, các hội nghị khoa học của các Viện nghiên cứu thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam). Các học giả trong nước đã bước đầu nghiên cứu về người Chơ Ro trên các lĩnh vực như: kỹ thuật trồng trọt, tín ngưỡng dân gian, văn nghệ dân gian, cưới xin, ma chay, kiến trúc, ngành nghề thủ công... Trong những công trình nghiên cứu này, phải kể đến 2 tập sách: Những vấn đề về dân tộc học Miền Nam Việt Nam, Ban Dân tộc học - Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1978 và Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam) của Viện Dân tộc học - Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam xuất bản năm 1984.
Trong công trình nghiên cứu Tây Nguyên tiềm năng và Triển vọng của tác giả Ngô Văn Lý và Nguyễn Văn Diệu, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1992. Trong tác phẩm này, tác giả dành hai chương giới thiệu khái quát về đặc điểm văn hóa xã hội của từng dân tộc nhóm ngôn ngữ Malayo-Polinesien và Môn-Khmer ở Tây Nguyên. Trong chương VIII, tác giả có dành 3 trang để giới thiệu về tộc danh, đặc điểm văn hóa xã hội người Chơ Ro.
Một số công trình mang tính giới thiệu tổng quan về văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam như: Việt Nam hình ảnh cộng đồng 54 dân tộc do Thông tấn xã Việt Nam xuất bản năm 1996; Bức tranh văn hoá các dân tộc Việt Nam do Nguyễn Văn Huy chủ biên, xuất bản năm 1997. Trong các công trình này, các tác giả chủ yếu giới thiệu cho độc giả khái quát về văn hóa xã hội của các tộc người ở Việt Nam, trong đó có người Chơ Ro; Trong cuốn sách Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thế kỷ XX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2000, giới thiệu về người Chơ Ro với vai trò là dân tộc bản địa ở hai tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu.
Trong tác phẩm Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam của tác giả Nguyễn Khắc Tụng, Hội Khoa học lịch sử, xuất bản năm 1994, công trình này giới thiệu khái quát về đặc điểm kiến trúc, trang trí kiến trúc của các dân tộc ở Việt Nam trong đó có người Chơ Ro. Ngoài ra, một công trình nghiên cứu về văn nghệ dân gian của người Chơ Ro Bản sắc dân tộc và văn hóa Đồng Nai của tác giả Huỳnh Văn Tới, Nhà xuất bản Đồng Nai, năm 1988, trong phần 2 của công trình này, tác giả dành 31 trang (từ trang 102 đến trang 131) trình bày về văn nghệ dân gian người Châu Ro, Châu Mạ ở Đồng Nai.
Đặc biệt, năm 1998, Người Châu Ro ở Đồng Nai của tác giả Huỳnh Văn Tới, do Chi hội Văn nghệ Dân gian Đồng Nai xuất bản, là tác phẩm nghiên cứu chuyên sâu về người Chơ Ro trên địa bàn của tỉnh. Công trình nghiên cứu này đã trình bày tổng quan về dân số, phân bố dân cư của người Chơ Ro, những phương thức canh tác cổ truyền, cấu trúc xã hội, gia đình, tục lệ của người Chơ Ro.
Vào năm 2004, tác giả Nguyễn Thành Đức đã nghiên cứu và ấn hành công trình chuyên sâu về múa dân gian của người Chơ Ro, Tác phẩm Múa dân gian tộc người Mạ, Chơ ro, Xtiêng vùng Đông Nam bộ, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
Nhìn chung, tất cả các công trình nghiên cứu trên đã giới thiệu khái quát văn hoá của người Chơ Ro ở một số phương diện: văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể bằng các phương pháp tiếp cận và các mục đích nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu tìm hiểu “Vấn đề giao lưu và biến đổi văn hóa của người Chơ Ro ở Đồng Nai trong giai đoạn hiện nay”.
3. Vấn đề giao lưu và biến đổi văn hoá của người Chơ Ro.
Nhìn chung, người Chơ Ro ở Đồng Nai còn bảo lưu nhiều yếu tố văn hoá truyền thống của dân tộc. Trong từng lĩnh vực đời sống dân cư, những yếu tố đó có thể giữ lại được ít nhiều và đậm nhạt khác nhau. Nhưng ở bất cứ lĩnh vực nào cũng có thể dễ dàng thấy được sự hiện diện của những giá trị mới và không hiếm khi ưu thế lại thuộc về giá trị đó. Do những tác động của hoàn cảnh lịch sử - xã hội dưới ảnh hưởng của môi trường sinh thái và những chính sách nhằm phát triển các dân tộc thiểu số bản địa ở địa bàn tỉnh đã diễn ra những biến đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế, văn hoá xã hội. Nhiều tập tục lạc hậu mang tính chất mê tín dị đoan đã được loại bỏ.
Những biến đổi của người Chơ Ro ở Đồng Nai còn chịu ảnh hưởng to lớn của văn hoá các dân tộc khác, trước hết là những ảnh hưởng từ người Việt. Thông qua giao tiếp văn hoá, họ đã tiếp thu không ít những giá trị văn hoá của người Việt sống trong cùng địa phương, kể từ cung cách làm ăn đến nhà cửa, quần áo, thậm chí tiếng nói và phong tục, tập quán. Có thể thấy ở những nơi mà cư dân có điều kiện tiếp xúc thường xuyên hơn với người Việt thì những biến đổi diễn ra có phần mạnh mẽ hơn, chẳng hạn như người Chơ Ro ở xã Túc Trưng, huyện Định Quán.
Ngày nay, trong điều kiện giao lưu, tiếp xúc giữa các vùng, các dân tộc ngày càng được tăng cường và mở rộng. Mỗi dân tộc có nhiều khả năng hơn trong việc tiếp thu các giá trị văn hoá của các dân tộc khác. Tuy nhiên, nhiều khi do tự ti và nhận thức sai lệch về văn hoá dân tộc của mình, người ta thường mặc cảm với giá trị cổ truyền, cho đó là những cái lạc hậu, lỗi thời và có xu hướng chối bỏ nó để tiếp nhận một cách dễ dãi những giá trị văn hoá từ những dân tộc có trình độ phát triển kinh tế xã hội cao hơn, mà họ coi là hiện đại. Vì thế việc tiếp nhận các giá trị này không phải thông qua quá trình chọn lựa và làm thích ứng với giá trị văn hoá sẵn có của mình dẫn đến tình trạng dễ đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc mình vào dân tộc khác.
3.1. Những ảnh hưởng văn hoá Việt ở người Chơ Ro
Hoạt động kinh tế
Bước chuyển biến vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự phát triển kinh tế xã hội của cư dân Chơ Ro là việc chuyển sang định canh, định cư, tiếp thu cách làm ruộng nước của người Việt và dần dần áp dụng các phương pháp canh tác và giống cây trồng với khoa học kỹ thuật tiến bộ của người Việt. Nông cụ xưa kia của người Chơ Ro ít, đến nay, họ đã tiếp nhận thêm nhiều nông cụ của người Việt (như cày, bừa, liềm, dao phát, máy cày, máy tuốt lúa, máy cắt cỏ...) Lịch và các biện pháp kỹ thuật trong canh tác lúa, tưới tiêu, chăm bón (sử dụng phân bón hoá học, các loại thuốc diệt cỏ…) của người Việt cũng được người Chơ Ro áp dụng trong canh tác ruộng nước.
Những hoạt động kinh tế của người Việt đã ảnh hưởng khá nhiều đến người Chơ Ro. Chính những ảnh hưởng này đã góp phần thúc đẩy sự phát triển đới sống kinh tế của người dân Chơ Ro, với chiều hướng tích cực.
Trong thời gian gần đây, dưới tác động của cơ chế thị trường, nền kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc tuy vẫn còn tồn tại nhưng nền kinh tế hàng hoá đã bước đầu nảy sinh. Người Chơ Ro đã tham gia vào các chợ tại ấp, xã gần khu vực sinh sống như những thương nhân trên thị trường. Họ bán các loại rau, củ, quả, hàng xén. ở các ấp đã có một vài gia đình mở quán bán bánh kẹo, ăn uống... Việc đầu tư để phát triển sản xuất đã bước đầu được chú ý. Có nhiều gia đình đã mua máy móc phục vụ lao động trồng trọt. Việc sử dụng phân hoá học, thuốc trừ sâu... cũng được nhiều gia đình áp dụng. Tuy nhiên do thiếu vốn và ít hiểu biết về kỹ thuật lạ chưa có thị trường tiêu thụ ổn định cho nên việc phát triển kinh tế hàng hoá còn gặp nhiều khó khăn và do đó bị hạn chế rất nhiều.
Văn hoá vật thể
Đã từ lâu, những bộ quần áo được cắt may theo kiểu người Việt được sử dụng phổ biến. Y phục dân tộc không còn xuất hiện trong cuộc sống của người dân Chơ Ro. Hầu hết phụ nữ Chơ Ro ở xã Túc Trưng huyện Định Quán có áo dài. áo dài được chị em Chơ Ro mặc vào các ngày lễ tết, khi đi lễ nhà thờ, đi dự đám cưới và các cuộc lễ khác.
Trong ăn uống, người Chơ Ro đã sử dụng nhiều loại thực phẩm mới để chế biến thức ăn và chế biến món ăn mà xưa kia họ không có hoặc không ăn do tập quán. Trước đây, vì điều kiện sinh hoạt và kinh tế khó khăn nên người dân rất ít chú ý đến việc chế biến thức ăn. Thức ăn được chế biến đơn giản: luộc, nướng và kho. Hiện nay, thịt không chỉ đem xào hay nấu mà còn giã giò, làm chả... như của người Việt. Việc sử dụng các loại gia vị do công nghiệp sản xuất như mì chính, bột canh... và sử dụng các loại nước chấm như nước mắm, nước tương trong bữa ăn thay thế đĩa muối ớt truyền thống cũng đã trở thành phổ biến.
Về cư trú, nhờ thực hiện định canh, định cư và theo chính sách xây nhà tình thương, những ngôi nhà sàn mang tính chất tạm thời dần dần được thay thế bằng những ngôi nhà kiên cố hơn để sử dụng lâu dài. Nhiều nhà mái bằng theo kiểu người Việt xuất hiện. Đồng thời, nguyên vật liệu làm nhà sàn, nhất là gỗ ngày càng thiếu nên dần dần người Chơ Ro đã có thói quen ở nhà đất. Tại ấp Trung Sơn, xã Xuân Trường, huyện Định Quán, ngôi nhà sàn đã hoàn toàn biến mất. Với sự hình thành ngày càng nhiều nhà đất thay thế dần các ngôi nhà sàn cũng gây khó khăn cho việc gìn giữ những yếu tố truyền thống của dân tộc Chơ Ro trong thiết kế, xây dựng nhà cửa. Tuy nhiên, về tâm lý, người Chơ Ro vẫn thích ở nhà sàn. Một số gia đình ở ấp Lý Lịch được xây nhà tình thương, nhưng họ không ở mà vẫn sinh hoạt chính trong ngôi nhà sàn đã cũ nát của mình.
Văn hóa xã hội
Về xã hội, ảnh hưởng rõ nhất của người Việt đối với người Chơ Ro là tên họ.
Theo truyền thống, người Chơ Ro ở Đồng Nai có khoảng 10 dòng họ. Tên gọi của các dòng họ này có nghĩa là tên của một loài vật nào đó, như dòng tộc Chơ Lưn (cá sấu) hay tên của ngay vùng đất nơi họ sinh sống, như dòng tộc Vôq nđu (đầu nguồn suối – họ ở khu vực đầu nguồn suối)… Một vài dòng tộc lớn của người Chơ Ro là: Chơ Lưn, Jgo n’he, Vôq Jiêng, Ta jâu, Vôq khlong, Vôq jguc, Smăh, Vôq Prâng, Vôq Dâr, Vôq Glao.
Do nhiều nguyên nhân, ngày nay, người Chơ Ro đã sử dụng tên họ của người Việt làm tên họ của mình. Hiện nay, trong các văn bản, hầu hết những người Chơ Ro ở huyện Định Quán đều mang họ Điểu; người Chơ Ro ở Long Khánh mang họ Thổ, họ Đào; người Chơ Ro ở Xuân Lộc thường mang họ Văn, họ Thị; người Chơ Ro ở Vĩnh Cửu thường lấy họ Nguyễn, họ Hồng; người Chơ Ro ở Long Thành và ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu mang họ Dương, họ Đào. Theo nghiên cứu của Giáo sư Mạc Đường, “họ Điểu xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX do quyết định của nhà Nguyễn và thực dân Pháp nhằm kiểm soát vùng các dân tộc thiểu số ở Đông Nam Bộ”[5]. Một số nơi, người dân lấy họ của người Việt làm họ cho mình, như họ Nguyễn. Một số nơi khác, do chính quyền Ngụy, trong giai đoạn dồn dân lập ấp chiến lược, đặt họ cho người dân tộc để làm căn cước, dễ quản lý, như họ Thổ, Thị, Văn… Ở xã Phú Lý huyện Vịnh Cửu, hầu hết người dân Chơ Ro mang họ Nguyễn, họ Hồng.
Bên cạnh đó, quan hệ hôn nhân giữa người Chơ Ro và người Việt khá phát triển... Nhiều nam giới Chơ Ro lấy vợ là người Việt và ngược lại, rất nhiều phụ nữ Chơ Ro lấy chồng là người Việt. Ngay tại gia đình già làng Nguyễn Văn Năm, ấp Lý Lịch 2, xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu: gia đình già làng có 7 người con thì có đến 4 người con lấy vợ hoặc lấy chồng là người Việt. Quan hệ hôn nhân Chơ Ro - Việt vừa là biểu hiện, vừa là kết quả, đồng thời cũng là động lực thúc đẩy giao lưu văn hoá giữa người Chơ Ro với người Việt.
Hiện nay, nhiều tập tục trong chu kỳ đời người của người Chơ Ro cũng bị ảnh hưởng của người Việt. Trình tự cưới xin của người Chơ Ro hầu như hoàn toàn giống người Việt: chạm ngõ, ăn hỏi, đám cưới, lại mặt... Người dân cũng chú ý đến việc xem giờ xấu, giờ tốt khi tổ chức các công việc quan trọng như đám cưới, đám ma, làm nhà...
Văn hoá phi vật thể
Là cư dân nói tiếng Môn Khơ me cư trú lâu đời ở vùng Nam Đông Dương, song ngày nay, do sinh sống gần gũi với người Việt nên người Chơ Ro sử dụng thành thạo tiếng phổ thông. Với nhiều nguyên nhân kinh tế, văn hoá, xã hội khác nhau, tiếng Việt ngày càng phổ biến trong cộng đồng người Chơ Ro. Người Chơ Ro dùng tiếng phổ thông trong các buổi họp dân, đi chợ... Trẻ em đến trường học bằng tiếng phổ thông. Mặt khác, do tiếp xúc, gắn bó thường xuyên với người Việt nên ngay trong ngôn ngữ Chơ Ro, lượng từ tiếng Việt đã tham gia ngày một nhiều hơn. Những từ như Tết, văn hoá, ba lô, giày, mắt kính, uốn tóc, hộp quẹt, sách, báo, bóng đá, thời sự, phim... được xen lẫn trong ngôn ngữ của đồng bào.
Những năm gần đây, các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp của người Chơ Ro như cúng thần lúa (yang va), cúng thần rừng (yang bri), thần rẫy (yang mir)…đã không còn. Thay vào đó, của họ thực hành những ngày lễ tết của người Kinh như: ngày tết Nguyên đán, 10.3, 30.4. Sự biến đổi này có thể cơ cấu sản xuất thay đổi từ du canh du cư chuyển sang định canh định cư, lối canh tác truyền thống dần chuyển sang phương thức sản xuất hiện đại. Cuộc sống xen cư với các dân tộc lớn như Việt, Hoa... phần nào làm cho văn hóa Chơ ro bị mờ nhạt đi. Bên cạnh đó, nhiều người dân Chơ ro đã chuyển sang theo đạo tin lành, mọi thủ tục nghi lễ được người dân tiến hành theo hình thức tôn giáo này, nhiều nơi không còn tập tục cúng thần lúa và thần rừng. Các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp cũng bị quên lãng, chỉ có những người lớn tuổi trong làng còn nhớ kể lại. Thậm chí thanh niên Chơ ro ở Đồng Nai nói chung, ở xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc nói riêng, hiện nay không còn nhớ những nghi lễ cổ truyền của dân tộc mình được diễn ra như thế nào và ý nghĩa của các nghi lễ đó ra sao.
Hiện nay, tại những khu vực có người Chơ Ro sinh sống như: huyện Xuân Lộc, Định Quán, Vĩnh cửu, Long Thành, thị xã Long Khánh, hầu hết người Chơ Ro có độ tuổi từ 18 đến 50 tuổi đều biết chữ Quốc ngữ, chỉ có một số người già không biết tiếng phổ thông. Thậm chí một số thanh niên Chơ Ro ở Xã Túc Trưng, huyện Định Quán do sống và lao động chung với người Việt và một số nguyên nhân khác đã không thể nói tiếng Chơ Ro thành thạo, ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày của họ là tiếng Việt.
Ngày nay, trong điều kiện giao lưu, tiếp xúc giữa các vùng, các dân tộc ngày càng được tăng cường và mở rộng. Mỗi dân tộc có nhiều khả năng hơn trong việc tiếp thu các giá trị văn hoá của các dân tộc khác. Tuy nhiên, nhiều khi do tự ti và nhận thức sai lệch về văn hoá dân tộc của mình, người ta thường mặc cảm với giá trị cổ truyền, cho đó là những cái lạc hậu, lỗi thời và có xu hướng chối bỏ nó để tiếp nhận một cách dễ dãi những giá trị văn hoá từ những dân tộc có trình độ phát triển kinh tế xã hội cao hơn mà họ coi là hiện đại. Vì thế việc tiếp nhận các giá trị này không phải thông qua quá trình chọn lựa và làm thích ứng với giá trị văn hoá sẵn có của mình dẫn đến tình trạng dễ đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc mình vào dân tộc khác.
3.2. Những ảnh hưởng văn hoá của người Mạ, Xtiêng, Cơ Ho...
Do cùng địa bàn cư trú, và cùng mối quan tâm về nguồn lợi kinh tế, người Chơ Ro có quan hệ khăng khít, qua lại với các dân tộc bản địa khác ở tỉnh Đồng Nai (Mạ, Xtiêng...). Quan hệ này được hình thành lâu đời, thể hiện trên nhiều mặt lịch sử và văn hoá. Đây không phải là mối quan hệ một chiều, mà là mối quan hệ song phương. Mặt khác, người Chơ Ro và người Mạ, Xtiêng, Cơ Ho... đều có chung nền tảng văn hoá - văn hoá cơ tầng Môn - Khơ Me. Vì vậy, việc xác định ảnh hưởng yếu tố văn hoá của dân tộc này đối với dân tộc kia và ngược lại là rất khó khăn.
Trong khu vực vùng núi Đông Nam bộ, xã hội của các dân tộc Mạ, Xtiêng, Chơ Ro... mang đầy đủ đặc trưng của xã hội chuyển từ mẫu hệ đến phụ hệ. Đó là nét tương đồng đầu tiên cần nhắc đến. Đặc trưng của chế độ phụ hệ ngày càng rõ rệt. Từ hình thức cư trú sau hôn nhân chủ yếu về nhà vợ, những dân tộc này xuất hiện hình thái cư trú song phương, sau đó ra ở riêng. Từ vai trò chủ đạo là người phụ nữ đã chuyển qua nam giới...
Những ảnh hưởng văn hoá của các dân tộc này thể hiện trong tất cả các mặt đời sống văn hoá xã hội của người dân. Từ phương thức sản xuất đến các nghi lễ trong chu trình vòng đời.
Nghề dệt ở người Chơ Ro là một ví dụ tiêu biểu về ảnh hưởng văn hoá của các dân tộc anh em xóm giềng. Nhiều hoa văn trên y phục của người Chơ Ro không có tên gọi riêng của dân tộc mà được mang tên gọi “hoa văn giống người Mạ (di canh)”, “hoa văn giống người Cơ Ho (nco ga tơp)”...
Trong lĩnh vực tín ngưỡng dân gian, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau của các dân tộc bản địa cùng địa bàn được thể hiện rất rõ.
Trước hết, đó là các vị thần (Yang). Các dân tộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me trên cùng địa bàn này đều có niềm tin vào các vị thần và đều có tục cúng thần. Sự tương đồng thể hiện rất rõ trong các lễ nghi nông nghiệp, trong hình ảnh bà bóng, thầy chang. Họ đều có quan niệm chung về sự sống và cái chết.
Cùng ngữ hệ Môn - Khơ Me, sinh sống trong cùng khu vực, nên bản sắc của múa của người Mạ, Xtiêng và Chơ Ro có nhiều nét chung, đều phản ánh khá đầy đủ môi trường sống, những quá trình con người tác động vào thiên nhiên sản xuất ra của cải, văn hoá vật thể và phi vật thể... biểu hiện cách tư duy, niềm tin vào các thần linh, hy vọng được giúp đỡ thực hiện ước mơ chinh phục thiên nhiên.
4. Văn hoá Người Chơ Ro trong quá trình CNH-HĐH
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cuộc sống của người dân Chơ Ro ngày càng ổn định và thu nhập ngày càng cao. Đời sống ngày càng cao thì đồ dùng sinh hoạt hàng ngày cũng phong phú và tiện nghi hơn. Trong nhà của người dân, chúng ta có thể thấy được khá nhiều đồ dùng gia đình khác nhau. Phần lớn là sản phẩm công nghiệp với các loại nguyên liệu nhôm hoặc nhựa. Một số gia đình khá giả đã sắm được đồ dùng đắt tiền như giường, tủ, đài, ti vi, xe máy... Đến giữa năm 2003, nhiều xã đã mắc đường lưới điện về tận ấp phục vụ người dân. Theo thống kê của UBND xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc năm 2008: tại ấp Trung Sơn, xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc, 91 % hộ gia đình người Chơ Ro ở đây có ti vi. Đây cũng có thể là nguyên nhân dẫn đến tâm lý chuộng ngoại, thích lạ làm cho các sản phẩm dân tộc ngày bị mai một.
Người dân Chơ Ro cũng biết áp dụng một số máy móc, hay nói cách khác là đưa cơ giới hoá phục vụ việc trồng trọt. Máy cày đã thay thế sức trâu bò, máy gặt lúa thay cho dao cắt lúa, liềm, máy tuốt lúa thay cho đôi tay... Các loại thuốc trừ sâu, phân bón được người Chơ Ro sử dụng thành thạo. Đối với chăn nuôi, thức ăn cho gia súc gia cầm được thay thế dần bằng cám công nghiệp. Hình thức chăn nuôi thả chuyển sang chăn nuôi tập trung, dựng chuồng cho từng loài. Bằng cách áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới, tuy còn hạn hẹp và ở bước khởi đầu, song cũng giúp cuộc sống đồng bào Chơ Ro đỡ khó khăn hơn.
Cũng trong quá trình công nghiệp hoá đất nước, do nhu cầu mức sống ngày càng tăng, người Chơ Ro không còn bó hẹp với ruộng rẫy nơi mình cư trú. Nhiều thanh niên Chơ Ro đi làm cho nhà máy, xí nghiệp trong và ngoài nước tại các khu công nghiệp. Nam giới ở ấp Đồng Xoài, Đức Thắng xã Túc Trưng, huyện Định Quán còn chung nhau mua máy cưa, xe kéo gỗ sang Lào làm thuê.
Y phục và đồ trang sức của người Chơ Ro cũng có nhiều thay đổi do xu hướng của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, quá trình giao lưu với người Việt. Ngoài việc mặc y phục như người Việt, nhiều phụ nữ Chơ Ro đã mặc váy đầm cho bản thân và cho con gái của họ, thanh niên ưa thích mặc quần jean áo thun. Các vòng cổ, vòng tay, nhẫn bằng hạt cườm, hạt nhựa, bằng đồng... truyền thống đã chuyển sang bằng chất liệu vàng với nhiều kiểu cách. Trong các đám cưới, chú rể Chơ Ro ngày nay đi giày da, mặc Complete; cô dâu đi giày cao gót, mặc váy đầm, thậm chí y phục còn được thay đổi nhiều lần trong ngày cưới.
Người dân Chơ Ro ngày nay đã đến các cơ sở y tế của xã, huyện để khám chữa bệnh và sinh đẻ, hầu như không theo cách chữa bệnh của các bà bóng. Một số nơi, các già làng vẫn còn áp dụng các phương pháp trị bệnh truyền thống bằng các loại cây rừng như đau bụng, nhức đầu, đau mắt, chệch khớp, rắn cắn… như ở các huyện Vĩnh Cửu, Xuân lộc, Long Khánh. Nhưng những nơi kinh tế, giao thông phát triển, họ thường chọn bệnh viện và sử dụng thuốc Tây, dầu gió mỗi khi có bệnh. Phương pháp nuôi con cũng theo sự hướng dẫn của cán bộ y tế xã. Sức khoẻ của trẻ em và người già khá hơn nhiều năm trước đây. Tuổi kết hôn của nam nữ thanh niên cũng cao hơn. Nghi lễ trong đám ma không kéo dài rườm rà nhiều ngày mà tổ chức tiến hành nhanh gọn.
Về tôn giáo, sự du nhập của đạo tin lành ngày càng nhiều, đặc biệt trong những năm gần đây đã tác động khá lớn đến văn hoá truyền thống của dân tộc Chơ Ro. Nhiều ấp có người Chơ Ro sinh sống, sau khi theo đạo Tin lành đã thay đổi nếp sống truyền thống như bỏ tục cúng thần. Các sinh hoạt cộng đồng chuyển thành những ngày lễ Thánh. Chiêng và các nhạc cụ truyền thống không được sử dụng nữa.
Đồng hành với tôn giáo là nhiều loại hình văn hoá phương Tây, tiêu biểu nhất là sản phẩm sách báo và băng hình, truyền hình... Tiếp cận với những khía cạnh văn hoá mới trên thế giới là điều nên làm. Tuy nhiên, đối với một số địa bàn, người dân, đặc biệt là tầng lớp thanh – thiếu niên bị văn hoá ngoại lai chi phối mạnh. Điều này dẫn đến nhiều thay đổi trong quan hệ xã hội, trong quan điểm thẩm mỹ, đạo đức lối sống... Thanh niên Chơ Ro mạnh dạn tham gia các sinh hoạt giải trí mới mẻ như hát karaoke; tổ chức sinh nhật với bánh kem thắp nến; vào quán uống cà phê, đánh bi da, nhậu... Họ dễ dàng tiếp thu lối sống hưởng thụ, cá nhân...
“Hiện nay, xu hướng hiện đại hoá, công nghiệp hoá là nhu cầu chân chính của mọi dân tộc. Tuy nhiên, không phải cứ hiện đại hoá là phủ nhận hết những giá trị truyền thống mà trước hết phải tôn trọng những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, đồng thời tiếp thu cái hay, cái đẹp, cái mới và cách tân nó cho cho phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc” [6]
Chúng tôi cho rằng, vấn đề biến đổi văn hoá trong giai đoạn hiện nay của các cộng đồng dân tộc là không thể tránh khỏi. Người Chơ Ro trên địa bàn tỉnh Đồng Nai cũng không nằm ngoài sự biến đổi này. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Chơ Ro đang dần dần biến mất, không còn mang tính đặc trưng của tộc người.
Bên cạnh ý thức của chính người dân Chơ Ro, sự quan tâm, hỗ trợ trên nhiều phương diện của Nhà nước và địa phương sẽ có những ảnh hưởng không nhỏ đối với việc bảo tồn văn hóa dân tộc này. Người dân Chơ Ro vừa cần thích nghi với cuộc sống hiện tại về phương diện vật chất, đồng thời họ cũng cần phải biết gìn giữ nền tảng văn hoá của dân tộc mình. Nếu không, môi trường công nghiệp và đô thị sẽ tác động mạnh mẽ vào đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, có thể làm biến đổi và mai một bản sắc văn hoá của dân tộc. Chính vì vậy, việc đưa ra các nhóm giải pháp liên quan đến các chế độ chính sách có tính đặc thù đối với người dân tộc thiểu số, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý cán bộ cơ sở là người dân Chơ Ro là vấn đề cần tìm hiểu và ứng dụng sớm vào thực tế. Có như vậy, những giá trị văn hóa của người Chơ Ro ở Đồng Nai mới được bảo tồn, phát huy, tô điểm thêm cho bức tranh văn hóa nhiều màu sắc của các dân tộc Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
- 1.Ban Dân tộc học - Viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh (1978), Những vấn đề về dân tộc học Miền Nam Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- 2.Báo cáo tổng kết của Ban Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Đồng Nai (2005).
- 3.Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam thế kỷ XX (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- 4.Chi hội Văn nghệ Dân gian Đồng Nai (1998), Người Châu Ro ở Đồng Nai, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
- 5.Nguyễn Văn Huy (chủ biên) (1997), Bức tranh văn hoá các dân tộc Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- 6.Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Diệu (1992), Tây Nguyên Tiềm năng và Triển vọng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
- 7.Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Nguyễn Văn Diệu (1998), Văn hoá các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- 8.Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh, Dịch giả Đỗ Vân Anh (1999), Xứ người Mạ lãnh thổ của thần linh, Nggar Maá, Nggar Yaang, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
- 9.Thông tấn xã Việt Nam (2006), Việt Nam - Hình ảnh cộng đồng 54 dân tộc, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
10. Huỳnh Văn Tới (1998), Bản sắc dân tộc và văn hóa Đồng Nai, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.
11. Nguyễn Khắc Tụng (1994), Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Hà Nội.
12. Viện Dân tộc học (1984), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[1] Thông tấn xã Việt Nam năm (2006), Việt Nam – hình ảnh cộng đồng 54 dân tộc, NXB Thông Tấn, Hà Nội, trang 38
[2]. Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Dân tộc học; Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1984, tr 205.